xuân

Tháo gỡ điểm nghẽn, tạo đà cho kinh tế tư nhân

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chia sẻ với TG&VN về những thành tựu phát triển kinh tế trong 80 năm qua, cũng như niềm tin vào những tín hiệu tích cực từ Nghị quyết 68 sẽ tạo đột phá cho khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian tới.
Tháo gỡ điểm nghẽn, tạo đà cho kinh tế tư nhân
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan.

80 năm qua, từ một quốc gia bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, Việt Nam đã kiên cường vươn lên, đạt được những thành tựu phát triển kinh tế đầy ấn tượng, từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Bà có thể chia sẻ đánh giá về chặng đường này?

Hành trình tám thập kỷ qua, Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, đi từ chiến tranh đến hòa bình, từ chia cắt đến thống nhất, từ bao vây cấm vận đến xây dựng nền kinh tế độc lập, đổi mới quản lý, hội nhập quốc tế và đặt mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.

Giai đoạn 1945-1985 là giai đoạn vượt qua khó khăn, giành độc lập và xây dựng nền kinh tế tự chủ. Đây là thời kỳ đầy thử thách và gian khổ đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngay sau khi giành độc lập, đất nước phải đối mặt với hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài, khiến cơ sở hạ tầng bị tàn phá nghiêm trọng, sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, với quyết tâm cao và tinh thần tự lực tự cường, Việt Nam đã tập trung khôi phục sản xuất, từng bước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Giai đoạn 1986-2000 bước vào công cuộc Đổi mới, chuyển mình bứt phá khi Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Từ một nước kém phát triển, Việt Nam dần vươn lên là một nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về quy mô mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện. Từ nền kinh tế đóng cửa, vị thế kinh tế, chính trị thấp, Việt Nam dần mở cửa, có quan hệ rộng rãi với cộng đồng quốc tế và tham gia tích cực vào đời sống kinh tế, chính trị của khu vực và thế giới.

Việt Nam thực hiện nhiều cải cách mạnh mẽ, như chấm dứt cơ chế bao cấp, phát triển kinh tế đa thành phần. Công nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tạo động lực mạnh mẽ cho sản xuất và kinh doanh.

Rồi Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế ra đời ngày 10/4/2013 giúp Việt Nam gặt hái những thành tựu đáng kinh ngạc, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Nghị quyết không chỉ mở ra con đường rộng lớn cho các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức cũng như người dân Việt Nam tham gia tích cực vào công cuộc hội nhập quốc tế của nước nhà mà còn mở ra thời kỳ mới tiếp bước những thành công của giai đoạn Đổi mới với dấu mốc gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995 và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007.

Với sự ra đời của Nghị quyết, quá trình hội nhập được mở rộng trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt là hội nhập kinh tế, thương mại có nền tảng để phát triển rất mạnh. Sau khi gia nhập WTO, đánh dấu cột mốc Việt Nam chính thức hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu theo chiều rộng, kinh tế Việt Nam bắt đầu đi vào chiều sâu, đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới trong khuôn khổ hợp tác đa phương, với các khu vực khác nhau và các kênh hợp tác song phương với các đối tác kinh tế quan trọng.

Từ nền tảng của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam đẩy nhanh đàm phán với Liên minh châu Âu (EU), tiến tới ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA). Tiếp đó là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) giữa 10 nước ASEAN và năm đối tác là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia và New Zealand. Việt Nam đã có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với nhiều nền kinh tế quan trọng nhất trên thế giới; tham gia hội nhập với những khu vực kinh tế quan trọng hàng đầu.

Tháo gỡ điểm nghẽn, tạo đà cho kinh tế tư nhân
Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã khẳng định vị thế, nâng tầm ảnh hưởng và giá trị thương hiệu trong nước và quốc tế. Ảnh minh họa. (Nguồn: Tập đoàn Trường Hải)

Ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân, khẳng định kinh tế tư nhân kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân. Bà cảm nhận sự chuyển biến đó như thế nào?

Trong chặng đường gần 40 năm chúng ta thực hiện quá trình Đổi mới, sự hình thành và phát triển của khu vực tư nhân Việt Nam có thể xem như một thành quả của công cuộc này. Nếu không có Đổi mới sẽ không có chính sách, chủ trương phát triển kinh tế tư nhân sau đó. Từ chỗ đi từ con số 0, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đã dần được thừa nhận, được tạo điều kiện phát triển và tiến đến vị trí trở thành “một động lực quan trọng nhất” như Nghị quyết 68 đã xác định.

Trên thực tế, trước đó, chúng ta đã có nhiều Nghị quyết về khu vực tư nhân, nhưng còn khá “dè dặt”, chưa mang lại thay đổi về thực chất. Đến Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 có nhắc đến khu vực kinh tế tư nhân như “một trong những động lực của tăng trưởng”, nhưng rõ ràng, nếu là “một trong những” thì khu vực này vẫn bị hoà vào các khu vực khác, vẫn bị xếp sau khu vực kinh tế Nhà nước và đầu tư nước ngoài (FDI). Nhìn vào đó, người ta thấy rằng, đây không phải một sự thay đổi, một quyết tâm mạnh mẽ mà đơn thuần chỉ là những ngôn ngữ mang tính chất động viên khu vực tư nhân chứ chưa thực sự coi họ là động lực cho sự phát triển.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định những đổi mới, cải cách đang triển khai (Nghị quyết 57 về thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật) – bộ tứ nghị quyết hay còn gọi là “bộ tứ trụ cột” sẽ tạo động lực mạnh mẽ, giúp Việt Nam “cất cánh” trong giai đoạn phát triển mới.

Với Nghị quyết 68, trong thời gian gần đây, Tổng Bí thư đã nhiều lần nhấn mạnh, “khu vực tư nhân là động lực quan trọng nhất”, là đòn bẩy cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Thông điệp đó được ông nhắc đi nhắc lại tại các diễn đàn khác nhau, không chỉ một mà rất nhiều lần, để khẳng định với các ngành, các cấp rằng, đây là một chủ trương mà Đảng, Chính phủ và Nhà nước quyết tâm đi theo.

Điều gì khiến bà tin rằng có những thay đổi thực sự đối với kinh tế tư nhân thời gian tới?

Trong Nghị quyết 68, Tổng Bí thư Tô Lâm lưu ý rất rõ, thể chế là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, nếu như chúng ta tập trung cải cách mạnh mẽ về thể chế thì tác động chắc chắn sẽ rất lớn. Tôi hoàn toàn đồng tình bởi lẽ đây mới là nút thắt, nếu không gỡ được vấn đề thể chế thì không có cách nào để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp được. Có thể nói, với cách đặt vấn đề của Nghị quyết 68, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã thấy rõ những vấn đề của doanh nghiệp, từ đó quyết tâm đưa ra những biện pháp mạnh mẽ để tháo gỡ.

Điều đáng chú ý trong Nghị quyết 68, theo tôi chính là lần đầu tiên đã thừa nhận kinh tế tư nhân có đóng góp lớn trong GDP của Việt Nam, định hướng đến năm 2030, khu vực này sẽ là động lực quan trọng nhất.

Thêm một điều khiến tôi ấn tượng nữa là ngay sau khi Nghị quyết 68 được ra đời, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân. Như vậy, chỉ trong một thời gian rất ngắn, Nghị quyết của Đảng đã được thể chế hóa nhanh chóng để sớm được thực thi, đi vào cuộc sống.

Thủ tướng cũng đã có những động thái mạnh mẽ. Lần đầu tiên, người đứng đầu Chính phủ mời các tập đoàn tư nhân tham gia vào những dự án rất lớn của quốc gia, ví dụ như dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam... Đây là sự kiện chưa từng có trong sự phát triển của Việt Nam.

Trước đây, với các dự án lớn, Chính phủ thường tìm đến các doanh nghiệp Nhà nước, hoặc chào mời các nhà đầu tư nước ngoài. Lần này, các thông điệp của Đảng, Chính phủ đã tạo cơ hội cho khu vực kinh tế tư nhân, khẳng định họ là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, tin tưởng họ đủ sức tham gia vào những dự án lớn, trọng điểm quốc gia, đóng góp cho tăng trưởng.

'); $('.hna-banner-inpage').insertAfter($('#divfirst')); })