Còn nhiều bất cập
Cuối tháng 10/2025, tại Hội thảo khoa học quốc gia “Hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học Việt Nam, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo”, PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình - Viện trưởng Viện Phát triển chính sách - Đại học Quốc gia TPHCM, đã trình bày tham luận về việc tăng cường phân cấp, phân quyền cho Đại học Quốc gia TPHCM trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong tham luận, ông nêu bật những bất cập hiện nay, đặc biệt liên quan đến cơ chế phân cấp, phân quyền trong xét, công nhận và quản lý học hàm.
Theo ông Tình, tinh thần xuyên suốt của Nghị quyết 71 là tăng cường phân cấp, do đó, việc giao cho một số cơ sở giáo dục đại học đủ điều kiện quyền tự xét công nhận và bổ nhiệm chức danh GS, PGS là phù hợp với xu hướng quốc tế và thể hiện tinh thần cải cách thể chế trong giáo dục đại học.
Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, việc xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh GS, PGS vẫn tồn tại nhiều bất cập. Một là, về quy trình xét công nhận, hiện nay ứng viên phải trải qua bốn hội đồng, khiến thủ tục trải qua nhiều bước, tốn nhiều thời gian. Điều này làm cho quá trình xét duyệt phức tạp, gây khó khăn cho các ứng viên và cả các cơ sở giáo dục trong việc đánh giá chính xác năng lực của các nhà khoa học.
Thứ hai, cơ chế về nhiệm kỳ bổ nhiệm chức danh GS, PGS cũng bộc lộ hạn chế. Hiện nay, nhiệm kỳ bổ nhiệm là 5 năm, sau đó tổ chức rà soát, đánh giá để bổ nhiệm lại. Tuy nhiên, ngay cả khi không được bổ nhiệm lại, người đã đạt tiêu chuẩn vẫn giữ danh hiệu GS, PGS và có thể được bổ nhiệm ở cơ sở khác. Cơ chế này khiến việc bổ nhiệm mất đi tính gắn kết với trách nhiệm và đóng góp thực tế của giảng viên tại đơn vị công tác, dẫn đến tình trạng một số cá nhân sau khi được phong chức danh không tiếp tục tham gia nghiên cứu hay đào tạo tích cực.
Bên cạnh đó, nhiều tiêu chí xét công nhận hiện vẫn mang tính định lượng, chưa phản ánh đầy đủ các yếu tố định tính như năng lực lãnh đạo học thuật, đóng góp sáng tạo trong nghiên cứu và khả năng đào tạo thế hệ kế cận. Đây là lý do khiến các đánh giá về học hàm chưa thực sự toàn diện, chưa khuyến khích phát triển bền vững các nhà khoa học.
Trước thực trạng này, PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình đề xuất thí điểm cơ chế cho phép một số trường đại học trọng điểm tự xét, công nhận chức danh GS, PGS. Các cơ sở được lựa chọn cần là những đại học đa ngành, có uy tín, tiềm lực khoa học mạnh và hội tụ một số lượng lớn các nhà khoa học đầu ngành.
Việc thí điểm sẽ tuân thủ các tiêu chuẩn chung do Thủ tướng Chính phủ ban hành, nhưng cơ chế xét duyệt linh hoạt hơn, đặc biệt với các nhà khoa học có tài năng đặc biệt. Thời gian thí điểm dự kiến là ba năm, với kết quả công nhận có giá trị pháp lý trên phạm vi toàn quốc.
Một buổi họp Hội đồng Giáo sư cơ sở năm 2024 tại Trường Đại học Thể dục Thể thao TPHCM. Ảnh: USH
Cần cẩn trọng
Đề xuất cho phép một số trường đại học trọng điểm được thí điểm xét công nhận chức danh GS, PGS và tự quyết định số lượng phó hiệu trưởng đang thu hút nhiều ý kiến trong giới học thuật. TS Lê Đông Phương - nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Đại học (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) cho rằng, chủ trương này phù hợp xu thế tự chủ, nhưng cần hiểu đúng bản chất và có cơ chế kiểm soát chặt chẽ.
Theo TS Phương, hiện nay, hệ thống trong nước đang tồn tại sự nhầm lẫn giữa công nhận đạt chuẩn chức danh và bổ nhiệm học hàm. Hội đồng GS Nhà nước chỉ công nhận đạt chuẩn, còn việc bổ nhiệm GS, PGS là thẩm quyền của các trường đại học, căn cứ vào nhu cầu đào tạo và nghiên cứu. “Nếu hiểu rằng cho phép các trường tự công nhận đạt chuẩn thì đó là sai về bản chất”, ông nhấn mạnh.
Trên thế giới, việc bổ nhiệm GS hay PGS hoàn toàn do nhà trường quyết định, không có hội đồng trung gian. Tuy nhiên, GS thường được bổ nhiệm gắn với một lĩnh vực hoặc vị trí chuyên môn cụ thể. Ở Việt Nam, điều này lại bị lẫn lộn, có trường sư phạm nhưng lại xuất hiện “giáo sư Toán học”, thay vì “giáo sư về giảng dạy Toán học”.
Thậm chí, nhiều cơ quan vẫn xếp GS, PGS như một bậc trình độ cao hơn tiến sĩ, trong khi trên thực tế, đây là chức danh học thuật, không phải trình độ đào tạo. “Sự nhầm lẫn này khiến hệ thống học hàm của chúng ta trở nên rối rắm và không theo kịp thông lệ quốc tế”, TS Phương nói.
Thực tế còn tồn tại nghịch lý: Có những khoa, PGS làm trưởng khoa nhưng dưới quyền lại có nhiều GS, điều hiếm thấy ở các đại học nước ngoài. Theo TS Phương, nếu trao quyền tự bổ nhiệm mà thiếu quy chuẩn rõ ràng, rất dễ dẫn đến “lạm phát học hàm”, như từng xảy ra ở một số quốc gia châu Âu. Vì vậy, trước khi thí điểm, cần định hình rõ cấp độ và quy mô trường nào được phép bổ nhiệm, ví dụ: Chỉ những cơ sở có hoạt động nghiên cứu mạnh, đào tạo sau đại học hoặc quy mô đủ lớn.
Dù hướng đến mục tiêu tự chủ, việc bổ nhiệm GS, PGS vẫn cần sự điều tiết từ cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là Bộ GD&ĐT. Theo TS Phương, Bộ GD&ĐT cần ban hành nguyên tắc cơ bản về chức danh GS, PGS trong Luật Nhà giáo, Luật Giáo dục Đại học… đồng thời giám sát, cân đối tỷ lệ học hàm giữa các ngành và các loại hình trường. “Nếu không có cơ chế kiểm soát, sẽ dễ xảy ra tình trạng trường nào cũng phong GS, PGS, kể cả những ngành hẹp, quy mô đào tạo nhỏ, chỉ vài chục sinh viên mỗi năm”, ông Phương cảnh báo.
Một thực tế khác cũng cần được chấn chỉnh là tình trạng lạm dụng học hàm. “Có người được bổ nhiệm GS, PGS ở một trường, nhưng khi chuyển công tác hoặc nghỉ hưu vẫn tự xưng danh này, trong khi quyết định bổ nhiệm chỉ có hiệu lực trong thời gian và đơn vị cụ thể”, ông nêu. Không ít trường tư còn lợi dụng xu hướng này, “thu nạp” nhiều người đã nghỉ hưu từ trường công để gia tăng tỷ lệ GS, PGS, khiến con số học hàm trở thành thước đo ảo về chất lượng.
Dẫu vậy, TS Phương cho rằng, cơ chế tự chủ nếu được thiết kế tốt sẽ mở thêm cơ hội cho các nhà khoa học trẻ. “Nếu họ có thành tích nghiên cứu nổi bật trong một lĩnh vực mũi nhọn, việc bổ nhiệm GS chỉ nhằm khẳng định vị thế học thuật của họ trong phạm vi khoa hay trường, chứ không phải sự phân tầng về trình độ”, ông phân tích.
Vị chuyên gia nhấn mạnh, để cơ chế này vận hành hiệu quả, cần đặt ra nguyên tắc rõ trong luật, xác định tiêu chuẩn nghiên cứu, giảng dạy và quy mô đơn vị được phép bổ nhiệm. Khi đó, Bộ GD&ĐT chỉ đóng vai trò giám sát, phân tích, tránh tình trạng phong hàm hình thức hoặc dùng học hàm để chạy chuẩn trong kiểm định.
PGS.TS Đỗ Phú Trần Tình cũng đề xuất cơ chế cho phép các trường trọng điểm tự quyết số lượng phó hiệu trưởng và cơ cấu phòng ban theo nhu cầu thực tiễn, gắn kết với cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả. Đây là bước đi nhằm hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học Việt Nam, đồng thời tạo động lực cho các nhà khoa học phát huy năng lực, đóng góp thiết thực vào đào tạo và nghiên cứu.
Theo ông, cơ chế phân cấp, phân quyền về cơ cấu tổ chức và bộ máy nhân sự tại các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính trong lĩnh vực giáo dục vẫn còn nhiều bất cập. Ông dẫn chứng, một trường đại học có quy mô 40.000 sinh viên hay 4.000 sinh viên cũng chỉ được bố trí tối đa ba phó hiệu trưởng, điều này chưa phù hợp với nhu cầu thực tiễn.