Cần thiết xây dựng và ban hành Luật
Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 5, chiều 25/5, Quốc hội nghe báo cáo về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Theo Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh, qua hơn 10 năm thực hiện, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của toàn xã hội về bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước; tài nguyên nước được quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững hơn, mang lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, một số quy định của Luật này còn giao thoa, chồng chéo với các luật khác, dẫn đến khó thực hiện hoặc lãng phí nguồn lực. Đồng thời, thiếu khung pháp lý cho an ninh nguồn nước, đặc biệt là vấn đề bảo đảm an ninh nước cho sinh hoạt; thiếu quy định cụ thể liên quan đến điều hòa, phân bổ nguồn nước, giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước; vấn đề bổ sung nhân tạo nước dưới đất; vấn đề giảm thiểu ngập lụt đô thị, định giá đầy đủ giá trị của tài nguyên nước; một số điều kiện kinh doanh không còn phù hợp...
Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh khẳng định, cần thiết phải cập nhật, thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước. Trong đó, cần nghiên cứu ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) theo hướng bổ sung, hoàn thiện các chính sách đã ban hành và nghiên cứu tích hợp các quy định về quản lý nước trong một bộ luật về nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện các vấn đề về nước trên cơ sở thống nhất quản lý về tài nguyên nước.
Mục đích xây dựng luật nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.
Quan điểm xây dựng Luật là: "Thể chế hóa quan điểm tài nguyên nước là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Tài nguyên nước phải là cốt lõi trong xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, quy hoạch dân cư, quy hoạch các ngành, lĩnh vực có khai thác sử dụng nước, hoạch định chiến lược phát triển đất nước. Các quy định của Luật phải bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với các pháp luật chuyên ngành liên quan và phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực tài nguyên nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Kế thừa các quy định của Luật 2012 đang phát huy hiệu quả; bãi bỏ các quy định bất cập; cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành cho phù hợp".
Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) hiện được xây dựng gồm 83 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 9 điều; sửa đổi, bổ sung 59 điều; bổ sung mới 15 điều) và bãi bỏ 13 điều.
Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu
Thẩm tra về dự án luật, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi); cho rằng việc sửa đổi Luật giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên nước trong bối cảnh cần tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước, khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý tài nguyên nước và yêu cầu hội nhập quốc tế trong quản lý tài nguyên nước.
Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng sử dụng nước, các cơ quan quản lý nước; tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài nguyên nước. Hồ sơ dự án Luật đáp ứng các yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo Luật cần tập trung làm rõ hơn quan điểm về ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản trị, phát triển tài nguyên nước, đặc biệt là công nghệ số để thống nhất về cơ sở dữ liệu, giảm thiểu nhân lực, quản lý vận hành hiệu quả, tiết kiệm chi phí, thuận lợi trong kiểm tra, giám sát… trong dự thảo Luật nhằm quản lý có hiệu quả và phát triển bền vững tài nguyên nước.
Về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật và tính tương thích với các điều ước quốc tế, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy khẳng định, cơ quan chủ trì soạn thảo đã tích cực tổ chức rà soát, tập trung vào 48 bộ luật, luật, nghị quyết, 2 điều ước quốc tế có liên quan đến Luật Tài nguyên nước. Do đó, các quy định trong dự thảo Luật cơ bản đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, rà soát kỹ việc sử dụng các khái niệm "nguồn nước", "tài nguyên nước" trong một số điều khoản của dự thảo Luật cho thống nhất và phù hợp. Ngoài ra, cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu các điều ước quốc tế liên quan; phối hợp, tổ chức rà soát các quy định giữa các luật để loại bỏ những quy định không cần thiết, hoặc dẫn chiếu theo pháp luật hiện hành, nhất là một số nội dung của dự thảo Luật có liên quan đến nhiều dự án luật đang được sửa đổi, bổ sung, như Luật Đất đai (các quy định đất có mặt nước ao, hồ, đầm (Điều 184), đất có mặt nước ven biển (Điều 185), đất bãi bồi ven sông, ven biển (Điều 187), đất xây dựng các công trình có hành lang bảo vệ an toàn (Điều 204); Luật Giao dịch điện tử (các quy định về xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia (Điều 8), dịch vụ công trực tuyến về tài nguyên nước (Điều 9)… để thể hiện đúng quan điểm, mục đích xây dựng Luật, khắc phục chồng chéo, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy nhấn mạnh, dự thảo Luật đã được xây dựng dựa trên việc tổng kết thi hành luật, kế thừa các quy định của Luật Tài nguyên nước hiện hành và đánh giá, rà soát kết quả thực thi các luật có liên quan. Do đó, về cơ bản các quy định của dự thảo Luật đảm bảo tính khả thi.
Tuy nhiên, cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục rà soát các quy định để tối ưu hóa việc khai thác, sử dụng nguồn nước, làm rõ thêm nội hàm một số quy định trong dự thảo Luật, như quy định về xây dựng kịch bản nguồn nước (khoản 3 Điều 36), làm rõ căn cứ xây dựng, việc áp dụng kịch bản nguồn nước trong quản lý tài nguyên nước; quy định tổ chức, cá nhân có trách nhiệm hỗ trợ chính quyền địa phương triển khai các biện pháp ứng phó, khắc phục tình trạng thiếu nước trên địa bàn (khoản 3 Điều 37); quy định về vận hành hồ chứa nước theo thời gian thực và trách nhiệm đóng góp kinh phí xây dựng, vận hành hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định điều tiết, vận hành liên hồ chứa và hoạt động của Tổ chức lưu vực sông (khoản 4 Điều 39).
Hải Liên