xuân

Đại học số cần hành lang pháp lý mạnh để bứt phá

Tuy nhiên, để triển khai đồng bộ từ đào tạo, quản trị đến kiểm định chất lượng, hệ thống văn bản pháp lý cần được hoàn thiện theo hướng linh hoạt, mở đường cho mô hình đại học số phát triển sâu và bền vững.

Định hình chiến lược

Trong Chiến lược phát triển giai đoạn 2022 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Trường Đại học Hà Nội đặt mục tiêu trở thành đại học và phát triển mô hình đại học số. PGS.TS Phạm Ngọc Thạch - Chủ tịch Hội đồng trường cho biết, để hiện thực hóa mục tiêu này, nhà trường sẽ nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình chuyển đổi số thành công trên thế giới, trong đó có Australia.

Theo PGS.TS Phạm Ngọc Thạch, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là xây dựng kế hoạch hành động cụ thể. Trước tiên, nhà trường tiến hành rà soát quy hoạch tổng thể, chú trọng phát triển nguồn nhân lực - yếu tố cốt lõi của chuyển đổi số.

Song song với đó, Trường Đại học Hà Nội sẽ tập trung bồi dưỡng chuyên môn cho giảng viên, đặc biệt là năng lực thiết kế trải nghiệm học tập trong môi trường số; thúc đẩy hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước về công nghệ giáo dục; triển khai mua và phát triển các khóa học trực tuyến, bao gồm đào tạo kết hợp, đào tạo trực tuyến cấp bằng và chứng chỉ.

PGS.TS Phạm Ngọc Thạch cho biết, một trong những định hướng trọng tâm là chuẩn bị thành lập HANU Edtech - trung tâm đổi mới sáng tạo của Trường Đại học Hà Nội; đồng thời nghiên cứu mức độ sẵn sàng chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học nhằm làm cơ sở hoạch định chính sách và mô hình triển khai trong giai đoạn tiếp theo.

Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế, PGS.TS Trần Thị Lý - Đại học Deakin (Australia) cho hay, nhà trường duy trì một đội ngũ chuyên trách về chuyển đổi kỹ thuật số và không gian học tập số, trực tiếp hỗ trợ giảng viên trong giảng dạy. Toàn bộ tài liệu, bài đọc, video và học liệu tham khảo đều được đưa lên hệ thống, giúp sinh viên truy cập thuận tiện mọi lúc, mọi nơi.

Theo PGS.TS Trần Thị Lý, yếu tố then chốt ở cấp độ tổ chức là đảm bảo đổi mới phải thực sự nâng cao chất lượng học tập của người học. Đây cũng là lý do Đại học Deakin luôn đạt mức độ hài lòng cao từ sinh viên, bởi trường đầu tư mạnh vào trải nghiệm học tập.

Bà thừa nhận, chuyển đổi số giai đoạn đầu có nhiều khó khăn: Giảng viên phải dành nhiều thời gian số hóa tài liệu, thiết kế bài giảng, quay – dựng video và tăng cường tương tác. Tuy nhiên, khi hệ thống học liệu và cấu trúc bài học đã hoàn thiện, khối lượng công việc giảm đáng kể và hiệu quả giảng dạy được cải thiện rõ rệt.

dai-hoc-so-1.jpg Sinh viên Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam. Ảnh: NTCC

Liên thông dữ liệu - nâng cao hiệu quả

Tháng 11/2024, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) thành lập Trung tâm Đại học số với nhiệm vụ trọng tâm là vận hành hệ thống thông tin và triển khai chuyển đổi số trong toàn bộ hoạt động của nhà trường.

Ông Đỗ Hoàng Kiên - Giám đốc Trung tâm, cho biết, trước đây mỗi khoa, ngành sử dụng một hệ thống thông tin riêng lẻ, thiếu liên thông, gây khó khăn trong tổng hợp dữ liệu phục vụ quản lý và ra quyết định. Điều này không chỉ làm chậm tiến độ xử lý mà đôi khi còn tạo ra những bức xúc không đáng có. Từ thực tế đó, nhà trường quyết định xây dựng mô hình quản trị đại học số trên nền tảng Canvas LMS.

Hệ thống mới nhanh chóng nhận được sự đồng thuận từ giảng viên và sinh viên. Với người học, nền tảng số tạo môi trường học tập linh hoạt, cho phép tự đánh giá tiến độ, theo dõi hiệu quả và chủ động điều chỉnh kế hoạch – từ lựa chọn môn học, thời gian đến mục tiêu điểm số.

Theo ông Kiên, việc chuyển đổi sang mô hình quản trị đại học số đã giải quyết triệt để những bất cập kéo dài trong đăng ký học phần; đồng thời đáp ứng yêu cầu cá nhân hóa chương trình đào tạo thông qua các gợi ý, tư vấn phù hợp trong suốt quá trình học.

Nhờ dữ liệu được liên thông và cập nhật theo thời gian thực, nhà trường có thể đưa ra quyết sách nhanh chóng, kịp thời; giảng viên chủ động hơn trong giảng dạy và từng bước hướng tới tự chủ hoàn toàn trong quản trị học thuật. Mô hình đại học số được kỳ vọng tạo nền tảng vững chắc cho quá trình hiện đại hóa và nâng cao chất lượng đào tạo tại Trường Đại học Công nghệ.

TS Nguyễn Huy Tiệp - Khoa Vật lý Kỹ thuật và Công nghệ Nano, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội), nhận định rằng, dù tồn tại nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau, nền tảng số đã giúp việc triển khai các phương pháp này trở nên thuận lợi và hiệu quả hơn. Hệ thống không chỉ hỗ trợ về chuyên môn, mà còn tạo động lực làm việc, thúc đẩy thái độ tích cực của cán bộ, giảng viên và sinh viên.

dai-hoc-so-3.jpg Sinh viên quốc tế đến trao đổi kiến thức về khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo tại Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội). Ảnh: Website nhà trường

Theo TS Tiệp, tính minh bạch là một trong những ưu điểm nổi bật của hệ thống quản trị số. Mọi cán bộ, giảng viên đều phải cập nhật tiến độ công việc; bất kỳ sự chậm trễ nào cũng được phản ánh ngay lập tức qua “khoảng trống” trên chuỗi dữ liệu, cho thấy rõ vị trí bị gián đoạn và cá nhân chưa hoàn thành nhiệm vụ. Nhờ đó, nền tảng số không chỉ là công cụ hỗ trợ, mà còn trở thành động lực đổi mới quản trị, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trong toàn trường.

Hiện nay, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục. Trong đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cùng Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đều nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục đại học.

Là cơ sở đào tạo trọng điểm trong lĩnh vực công nghệ, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) xác định ứng dụng mô hình quản trị đại học số là xu thế tất yếu. GS.TS Chử Đức Trình - Hiệu trưởng nhà trường, cho biết, quá trình triển khai không tránh khỏi khó khăn, thậm chí có cán bộ phải rời hệ thống do không đáp ứng được yêu cầu mới của mô hình quản trị hiện đại.

Tuy vậy, sau một thời gian vận hành và hoàn thiện quy trình, hiệu quả của mô hình đã thể hiện rõ rệt. Hệ thống giúp giảm tải nhân lực quản lý, đồng thời bảo đảm tính công khai, minh bạch trong toàn bộ hoạt động giảng dạy và nghiên cứu. Nhờ đó, giảng viên, sinh viên và phụ huynh thêm tin tưởng vào chất lượng quản trị của nhà trường, đồng thời được truyền cảm hứng để chủ động hơn trong học tập và công tác.

“Thực tế cho thấy, nhiều sinh viên đã tốt nghiệp sớm một năm. Điều đó đồng nghĩa năng suất học tập của các em tăng khoảng 25% so với trước đây”, GS.TS Chử Đức Trình cho biết và kỳ vọng mô hình đại học số sẽ tiếp tục tạo động lực đổi mới, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong thời gian tới.

dai-hoc-so-4.jpg Một lớp học của Trường Đại học RMIT Việt Nam. Ảnh: NTCC

Cần cơ chế đặc thù cho giáo dục đại học số

Theo Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), “giáo dục đại học số” được định nghĩa là mô hình đào tạo dựa trên nền tảng số, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, có thể triển khai linh hoạt dưới nhiều hình thức và phương thức đào tạo khác nhau. Ông Lưu Bá Mạc (đoàn đại biểu Quốc hội Lạng Sơn) đánh giá đây là định hướng tiến bộ, phù hợp xu thế chuyển đổi số, học tập mở và góp phần nâng cao chất lượng dạy - học trong bối cảnh mới.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu dự thảo, ông Lưu Bá Mạc cho rằng, một số quy định vẫn chưa thật thống nhất, dễ dẫn đến nhiều cách hiểu khi triển khai. Chẳng hạn, dự thảo vẫn yêu cầu đào tạo chính quy và thường xuyên diễn ra tại các địa điểm được cấp phép, trong khi bản chất của giáo dục số là không phụ thuộc vào không gian vật lý.

Bên cạnh đó, quy định về phương thức đào tạo trực tiếp, từ xa và kết hợp chưa làm rõ mức độ tương thích với mô hình giáo dục đại học số, có thể tạo ra vướng mắc giữa cơ sở đào tạo, cơ quan quản lý và hệ thống kiểm định chất lượng trong quá trình thực thi.

Từ thực tiễn triển khai, đại biểu Quốc hội đoàn Lạng Sơn đề xuất cần quy định rõ ràng hơn: Đối với chương trình đào tạo tổ chức hoàn toàn trên không gian số, không nên áp dụng yêu cầu về địa điểm được cấp phép. Thay vào đó, cơ sở đào tạo phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn về hạ tầng số, an toàn dữ liệu, quản trị - giám sát học tập, xác thực người học và kiểm định chất lượng.

Theo ông Lưu Bá Mạc, giáo dục đại học số cần được xác định như một khung tổng thể; trong đó các phương thức đào tạo trực tiếp, từ xa hay kết hợp có thể vận hành linh hoạt theo chuẩn kỹ thuật và điều kiện triển khai do Bộ GD&ĐT ban hành. Quy định về địa điểm được cấp phép chỉ nên áp dụng cho hình thức đào tạo trực tiếp, nhằm tránh chồng chéo và đảm bảo phù hợp với đặc thù của đào tạo trực tuyến.

Đối với dự thảo Nghị quyết về một số chính sách đặc thù thực hiện Nghị quyết 71, ông Lưu Bá Mạc đề nghị bổ sung cơ chế tài chính đặc thù, đặc biệt là định mức chi cho hạ tầng số, cơ sở dữ liệu, học liệu số và cơ chế thuê dịch vụ nền tảng số trong nước, thay vì chỉ tập trung đầu tư trang thiết bị.

Ông cũng kiến nghị cho phép một số cơ sở giáo dục đại học lớn và các đại học quốc gia được lựa chọn làm hạt nhân thí điểm triển khai mô hình giáo dục đại học số, với mức độ tự chủ cao hơn về tài chính, tổ chức nhân sự, đồng thời đi kèm cơ chế trách nhiệm giải trình rõ ràng.

Bàn về chính sách đột phá trong chuyển đổi số giáo dục, bà Nguyễn Thị Huế (đoàn đại biểu Quốc hội Thái Nguyên) đề xuất triển khai một số mô hình thí điểm, chú trọng hợp tác giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp nhằm xây dựng nền giáo dục quốc gia thông minh. Mô hình này bao gồm đổi mới quản trị cơ sở giáo dục, tổ chức đào tạo - dạy học trên nền tảng số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo một cách kiểm soát, phù hợp với chuẩn mực văn hóa, ngôn ngữ và pháp luật Việt Nam.

Theo bà Huế, giáo viên và giảng viên cần được hỗ trợ bởi các “trợ lý ảo”, trong khi học sinh, sinh viên có thể tiếp cận “gia sư ảo” nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Cùng với đó, hệ thống quản lý, kiểm tra và đánh giá phải được thiết kế phù hợp với yêu cầu của bối cảnh chuyển đổi số. Bà cũng đề xuất thí điểm mô hình giáo dục đại học số, cho phép các trường liên kết và chia sẻ học liệu số, phòng thí nghiệm thực – ảo, qua đó hình thành hệ sinh thái giáo dục đại học mở, kết nối và mở rộng cơ hội tiếp cận cho người học.

Một nội dung quan trọng khác được bà nhấn mạnh là xây dựng cơ chế đặc thù để tiếp nhận, chuyển giao và đặt hàng các chương trình đào tạo nghề chất lượng cao trong những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn như công nghệ lõi, bán dẫn, AI, tự động hóa, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo. Đại biểu đoàn Thái Nguyên cho rằng cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi học phí và cấp học bổng để thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành chiến lược, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên số.

Nền tảng quan trọng nhất trong chuyển đổi số và đổi mới giảng dạy là kế hoạch chiến lược. Mỗi trường đại học đều có định hướng phát triển riêng, do đó, mọi đổi mới trong dạy - học chỉ có thể bền vững khi được đặt trong tổng thể chiến lược ấy và được triển khai nhất quán trong các hoạt động thường xuyên của nhà trường. - PGS.TS Trần Thị Lý