Gần 600 năm qua, làng Đông Tác - Trung Tự vẫn bền bỉ gìn giữ truyền thống hiếu học, khoa bảng, nơi sản sinh nhiều bậc danh sĩ, đại khoa, làm rạng danh đất Thăng Long và trở thành niềm tự hào của vùng kinh kỳ xưa.
Giữa khu vực phố thị sầm uất bậc nhất của Thủ đô, nơi những tuyến phố như Xã Đàn, Phạm Ngọc Thạch, Lương Định Của, Nam Đồng vẫn còn lưu giữ một mảnh hồn cổ kính: Làng Đông Tác. Nơi đây từng là vùng đất địa linh nhân kiệt, là cái nôi của dòng họ Nguyễn Đông Tác - một dòng họ khoa bảng lừng danh, gắn bó với Thăng Long gần 6 thế kỷ.
Dấu tích làng cổ giữa đất kinh kỳ
Theo các nguồn sử và địa chí cổ, thời nhà Lê làng Đông Tác vốn là một trong 36 phường của kinh đô Thăng Long. Đến triều Nguyễn, phường đổi thành thôn Đông Tác, thuộc tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức; sau năm 1831, địa danh này thuộc tỉnh Hà Nội. Khu dân cư chính của làng là xóm Trung Tự chạy dọc đê La Thành và xóm Cam Đường.
Từ bao đời, người dân Đông Tác - Trung Tự sinh sống bằng nghề nông và trồng rau. Vào thời Lê, một bộ phận dân làng đã lên phố Cầu Gỗ và đầu phố Hàng Bạc mở cửa hàng, nhận quần áo về nhuộm hoặc mang đến cho dân làng Kim Hoa (Kim Liên) nhuộm thuê. Dần dần, họ định cư tại đó, lập nên các làng Đông Tác Nhiễm Thượng, Đông Tác Nhiễm Trung và Đông Tác Nhiễm Hạ; trong đó chữ “Nhiễm” mang nghĩa là nhuộm, gắn với nghề truyền thống.
Theo các tư liệu Hán Nôm còn lưu giữ, vào cuối thế kỷ 16 - đầu thế kỷ 17, một số người quyền thế ở làng Kim Hoa đã chiếm đất của Trung Tự, khiến nhiều gia đình mất kế sinh nhai phải bỏ đi nơi khác. Vụ tranh chấp này kéo dài hàng chục năm và chỉ đến năm Quý Sửu (1673), triều đình mới xử phần thắng cho dân làng Trung Tự.
Toàn bộ sự kiện được ghi lại trên bia đá lập ngày 2 tháng Sáu năm Quý Sửu, niên hiệu Long Đức (1733), hiện vẫn còn được bảo tồn tại đình Trung Tự, như một minh chứng sống động cho tinh thần đoàn kết và ý chí bảo vệ quê hương của người Đông Tác xưa.
Theo sách “Thọ Xương Đông Tác Nguyễn thị thế phả”, soạn vào năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), dòng họ Nguyễn ở Đông Tác có gốc từ Gia Miêu ngoại trang (Thanh Hóa), là vùng đất phát tích của nhiều danh gia vọng tộc thời Lê - Nguyễn.
Vào khoảng giữa thế kỷ 15, một nhánh họ Nguyễn từ Gia Miêu đã ra Thăng Long lập nghiệp, chọn vùng đất Trung Tự - Đông Tác làm nơi an cư. Tính đến nay, đã có gần 600 năm định cư liên tục tại Hà Nội, trải qua 21 đời kế tiếp.
Theo bản đồ năm 1490 đời vua Lê Thánh Tông, đất Trung Tự thuộc phường Đông Tác, huyện Vĩnh Xương, phủ Phụng Thiên. Đến năm 1831, dưới triều Minh Mệnh, khu vực này được ghi nhận thuộc phường Đông Tác. Cái tên “Đông Tác” vì thế gắn bó với lịch sử hình thành và phát triển của vùng trung tâm kinh kỳ, vừa là tên phường, vừa là tên gọi một làng cổ và cũng là biểu tượng cho một truyền thống khoa bảng bền lâu.
Văn bia úp 'Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt' do Hoàng giáp Nguyễn Trù soạn năm 1733.
Nền móng dòng họ khoa danh
“Thọ Xương Đông Tác Nguyễn thị thế phả” cũng cho biết, người được tôn là cụ sơ tổ của họ Nguyễn Đông Tác là Nguyễn Chính Thiện. Con trai cụ là Nguyễn Lương Phúc, hiệu Thanh Nhàn, từng giữ chức Quang tiến Phụ quốc Thượng tướng quân - một võ tướng tài ba dưới triều nhà Lê.
Đến đời thứ tư (thế kỷ 16), do bị một số quan lại chiếm đất, dòng họ phải rời sang cư trú tạm tại làng Kim Hoa (phía Bắc thành Thăng Long). Song lòng hiếu học và tinh thần bền chí vẫn không hề suy chuyển, trở thành cốt lõi của truyền thống gia tộc.
Từ thế kỷ 17, dòng họ Nguyễn Đông Tác bắt đầu bước vào thời kỳ rực rỡ của khoa bảng. Nhiều người đỗ đạt, giữ trọng trách trong triều đình, đồng thời góp phần đào tạo nhân tài, bồi dưỡng thế hệ sau. Trong số đó, Nguyễn Hy Quang (1634 - 1692) là danh sĩ tiêu biểu mở đầu cho truyền thống hiếu học của họ Nguyễn Đông Tác.
Nguyễn Hy Quang sinh năm 1634, thuở nhỏ nổi tiếng thông minh, ham học. Khi còn là học trò, ông đã từng bày mưu cho dân làng kiện đòi lại đất bị chiếm, thể hiện tinh thần cương trực và năng lực lý luận sắc sảo.
Năm 1657, ông đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương khoa Đinh Dậu, sau đó vào thi Hội, trúng Tam trường, rồi đỗ khoa Sĩ vọng năm 1670 (Canh Tuất). Ông được bổ làm Giáo thụ phủ Thường Tín, sau được chúa Trịnh Tạc triệu vào phủ dạy học cho các cháu đích tôn của nhà chúa là Trịnh Vĩnh và Trịnh Bính.
Nguyễn Hy Quang là một nhà nho tiêu biểu của thế kỷ 17, không chỉ học rộng tài cao, mà còn là người có công lớn trong việc phục hưng vị thế của làng Đông Tác sau giai đoạn biến loạn. Từ thời ông, gia đình họ Nguyễn trở thành trung tâm học hành, đào tạo nhân tài của vùng Thọ Xương - Vĩnh Xương, được dân gian tôn là “Họ Nguyễn học phong”.
Con trai của Nguyễn Hy Quang là Nguyễn Hữu Dụng (1661 - 1729), là một nhân vật kết hợp giữa văn và võ, tiêu biểu cho tinh thần “văn võ song toàn” của dòng họ. Nguyễn Hữu Dụng đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ Võ), được phong Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Tào quận công, giữ chức Tổng binh Thiêm sứ. Ông có công lớn trong việc bảo vệ kinh thành, được triều đình trọng vọng, và khi mất được phối thờ trong đình Trung Tự. Mộ ông hiện vẫn còn ở làng Đa Sĩ (Hà Đông).
Cháu ruột của Nguyễn Hy Quang là Nguyễn Trù, đời thứ tám, đỗ Hoàng giáp năm 1697, từng làm đến chức Tế tửu và Tư nghiệp Quốc Tử Giám - vị quan đứng đầu cơ quan giáo dục cao nhất nước. Với cương vị ấy, ông có công lớn trong việc đào tạo sĩ tử Thăng Long, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước thời Lê - Trịnh. Từ đây, dòng họ Nguyễn Đông Tác thực sự bước lên hàng “danh tộc khoa bảng” của Thăng Long.
Đến đời thứ 11, họ Nguyễn tiếp tục có những danh nhân lớn như Nguyễn Hữu Diễn, đỗ Tạo sĩ (Tiến sĩ Võ) khoa Đinh Sửu (1757), làm quan đến chức Vệ uy Thị giảng, Quả cảm tướng quân, tước Thức Võ hầu. Cùng đời đó còn có Nguyễn Văn Lý (1795 - 1868), đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1832) thời Minh Mạng, làm quan và dạy học, được xem là nhà giáo, nhà văn hóa lớn của thế kỷ 19. Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị, là tấm gương về tinh thần học vấn và đạo đức nhà Nho.
Mõ cá tại đình Trung Tự có từ đời nhà Mạc, ngày trước để trương tuần gõ mời quan viên ra đình bàn việc.
Nối dài dòng chảy trí tuệ
Bước sang thế kỷ 20, truyền thống hiếu học của làng Đông Tác tiếp tục tỏa sáng qua những trí thức nổi bật của dòng họ Nguyễn. Trong đó, có thể kể đến Nguyễn Hữu Cầu (đời 13) là một trong những người sáng lập Trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), ngôi trường mở đầu cho phong trào chấn hưng giáo dục quốc dân, đề cao tinh thần khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Đông Kinh Nghĩa Thục không chỉ là biểu tượng của phong trào canh tân Việt Nam đầu thế kỷ 20, mà còn là minh chứng cho truyền thống yêu nước, trọng học của người Đông Tác.
Nguyễn Hữu Tảo (đời 14) là người đặt nền móng cho ngành Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam. Ông là nhà nghiên cứu sư phạm tiên phong, có nhiều công trình về tâm lý học giáo dục, đóng góp vào việc hình thành nền tảng khoa học cho ngành học này ở Việt Nam.
Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902 - 1954) là một cư sĩ nổi tiếng trong Phật giáo Việt Nam, dịch giả và học giả uyên thâm, tác giả bộ “Hán - Việt tự điển” và nhiều trước tác giá trị về văn hóa, tôn giáo. Ông là tấm gương sáng về đạo hạnh, học vấn, và tinh thần nhập thế, góp phần lan tỏa giá trị nhân văn của truyền thống Đông Tác.
Làng Đông Tác xưa vốn gồm ba thôn: Trung Tự, Nam Đồng và Trung Tự Thượng, thuộc tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương. Sau năm 1945, các đơn vị hành chính thay đổi, làng Đông Tác được nhập vào phường Phương Liên (quận Đống Đa) - tính đến trước ngày 1/7/2025.
Dẫu bị đô thị hóa mạnh mẽ, những dấu tích văn hóa xưa vẫn còn in đậm trong tâm thức người dân: Đình Trung Tự, giếng cổ, miếu thờ Thành hoàng, và ngày hội làng vào rằm tháng Ba âm lịch vẫn được duy trì đều đặn.
Đình Trung Tự là ngôi đình cổ khởi đầu từ một ngôi đền nhỏ thờ thần Cao Sơn và Huệ Minh công chúa, sau mở rộng thành đình, có sắc phong Phúc thần là Đại vương Nguyễn Hy Quang.
Trải qua bao biến thiên, đình Trung Tự vẫn lặng lẽ gìn giữ dấu tích của làng cổ Đông Tác - Trung Tự giữa lòng Hà Nội. Dẫu nhà Văn chỉ xưa đã bị mất, giếng Ngọc cũng chỉ mới được xây lại trong những năm gần đây, song trong đình vẫn còn lưu giữ nhiều cổ vật quý, trong đó có hai tấm bia đá cổ và mười câu đối xưa, là minh chứng sống động cho truyền thống văn hiến và khoa bảng lâu đời của làng, như một khẳng định: “Tổ đức thiên thu, giáo hóa lưu phương danh cố thổ/ Văn phong vạn cổ, khoa danh hiển thế tích từ nhân”.
Ngay sau cổng đình là hai nhà bia nhỏ, nơi đặt những tư liệu quan trọng về lịch sử làng. Đặc biệt, nổi bật nhất là bia hộp “Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt” - tức Mốc địa giới thôn Trung Tự, phường Đông Tác, vốn trước kia được đặt tại Văn chỉ.
Bia này mở đầu bằng lời văn do Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Hoàng giáp Nguyễn Trù soạn vào năm 1733. Đây chính là văn bia ghi lại sự kiện dân làng Trung Tự thắng kiện trong vụ đòi lại đất bị chiếm giữ, diễn ra 60 năm sau cuộc tranh chấp đất đai nổi tiếng.
Trải qua hàng trăm năm, dù làng xưa đã thành phố phường, người Đông Tác vẫn giữ nếp tôn sư trọng đạo, khuyến học khuyến tài. Trong bối cảnh đô thị hóa, nhiều gia đình đã di cư ra ngoài khu vực cũ, song mối dây liên kết họ tộc vẫn bền chặt.
Câu lạc bộ “Khuyến học họ Nguyễn Đông Tác” được thành lập, tổ chức các chương trình học bổng, trao thưởng cho học sinh giỏi, sinh viên đỗ đại học. Đó là sự tiếp nối sinh động của tinh thần hiếu học mà tổ tiên đã hun đúc.
Hiện nay, dòng họ Nguyễn Đông Tác đã phát triển đến đời thứ 21, với hàng nghìn hậu duệ sinh sống khắp trong và ngoài nước. Nhiều người là giáo sư, tiến sĩ, nghệ sĩ, kỹ sư, doanh nhân, tiếp tục đóng góp vào các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa, kinh tế.
Theo nhà Hán học Vũ Tuấn Sán, tên gọi Đông Tác bắt nguồn từ Kinh Thư, thiên “Nghiêu điển”, với câu “Dần tân xuất nhật, bình trật Đông Tác” - nghĩa là “Kính cẩn đón mặt trời mọc, sắp xếp việc trồng trọt”. Xưa kia, “Đông Tác” chỉ công việc canh tác mùa Xuân, ứng với phương Đông trong thuyết ngũ hành. Tên phường vì thế gắn với truyền thống nông nghiệp.