.t1 { text-align: center; } .t2 { text-align: right; }
Ông là ai trong số những con người và danh xưng “Bùi Giáng tiên sinh”, “Bùi Giáng thi sĩ”, “Bùi Giáng triết gia”, “Bùi Giáng giáo sư”, “Bùi Giáng dịch giả”…? Ông lại không vợ không con, cả đời bị cho là si tình một nữ minh tinh sân khấu… Bởi thế, “Mắt buồn” luôn được phủ trùm lớp không khí hư ảo, hư ảo đến độ khó hiểu.
Mắt buồn
Bùi Giáng
Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng Chạp quay nghiêng
Âm trang sử lịch thu triền miên trôi
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
Bóng dáng sự khó hiểu ban đầu dễ nhận thấy nhất là sự sắp xếp ngược đời của những con chữ có phần xa lạ nhau. Bùi Giáng lại là bậc thầy của việc chơi chữ. Cứ thế, thi sĩ để cho những con chữ ấy nó ngọ nguậy. Ngọ nguậy mãi, ngọ nguậy để đi tìm một sự thật chi đó về cuộc đời? Tìm cho bằng được.
Rồi có thấy hay không lại là một chuyện khác. Cứ thế, hơn nửa thế kỷ “Mắt buồn” vốn đã khó hiểu lại càng như khó hiểu hơn. Một sự thể đòng đưa luôn như đang trêu ngươi các thế hệ yêu thi ca, yêu thơ văn Bùi Giáng.
Rơi vào thế cô đơn
Người ta đã từng cắt nghĩa “Mắt buồn” theo hướng thơ thất… tình. Nhưng kiểu cắt nghĩa ấy không làm thỏa mãn được cộng đồng yêu thơ văn Bùi Giáng. “Mắt buồn” rơi vào thế cô đơn, thi phẩm đã buồn lại càng như buồn hơn.
Nhưng “Mắt buồn” liệu đã thật sự cô độc bởi sự lạ đời và khó hiểu của mình?
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã yêu mến “Mắt buồn” bằng một kiểu cảm nhận riêng đẫm chất nhạc liệu “Còn hai con mắt khóc người một con/ Còn hai con mắt một con khóc người”… vô tình đẩy thêm cho “Mắt buồn” trượt dài vào con đường hoang liêu tình ái bởi giai điệu chậm buồn rất đặc trưng của ông.
“Bóng mây trời cũ hao mòn” đã mở đầu cho bài thơ bằng bao nhiêu sự dồn nén. Ký ức đi qua rồi “hao mòn” theo năm tháng? Ý thơ như một lời nhắc rằng đó là dấu vết rất rõ của vệt đi thời gian. Càng xa, càng thăm thẳm vô cùng… càng “hao mòn” và mờ mịt. Hình ảnh “trời cũ” xuất hiện khiến người ta càng dễ liên tưởng đến một thời ký ức đẫm tương tư.
Nhưng nếu là tương tư, và nhân vật trữ tình đang khoác trên mình màu áo yêu đương thì ý thơ sao có thể đột nhiên trở thành hình ảnh “bóng mây” và “hao mòn” theo năm tháng? Đại thi hào Nguyễn Du từng viết “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” (Truyện Kiều) rồi đó thôi! Khi đã tương tư rồi thì càng xa lại càng gần, càng lâu càng đậm chứ đâu có kiểu “hao mòn” như vậy được.
Điều gì đã khiến cho “chiêm bao” phải “náo động” để rồi xuất hiện một cách nói rất lạ “riêng còn hai tay”? “Riêng còn hai tay” chỉ là một sự thể hiện độc lạ hay đang ẩn chứa một điều gì đó về nguồn gốc xa xưa của con người, của loài người? Kinh sách lại chẳng từng nói đến những sự thiện lành, thiện lương cực kỳ khó tin đó sao: Hạt lúa to tự bay về nuôi sống loài người… Rồi vì sao con mắt thứ ba lại chỉ còn trong thể tùng mà teo đi khả năng linh ứng?
Hơn nữa, nếu “chiêm bao” “náo động” chỉ gắn với chuyện tương tư thì sao có thể xuất hiện cách nói hình ảnh lạ “riêng còn hai tay”? Sự chao đảo của thế giới nội tâm thất tình mang đậm dấu ấn cá nhân thì sao có thể làm rung lắc được cả quá khứ “trời cũ” lẫn hiện tại “bóng mây” mà phải “náo động”?
Bởi bao nhiêu ước nguyện, bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu kiếm tìm từ cổ chí kim của loài người, cho dù có chút gì đó “hao mòn”, song mỗi một cá nhân đã luôn để lại những dấu ấn không mờ, điều này đã dẫn đến cách nói độc đáo “riêng còn hai tay”?
Vả lại, điều ấy xuất hiện như một minh chứng khẳng định rằng sự kiếm tìm về cội nguồn của thế giới này, về bản thể của con người, từ đâu đến và đến đây làm gì, có thể sẽ tan vào trập trùng những nghi hoặc thì điều ấy vẫn hàng ngày hiện hữu là để cốt nhắc lại với con người rằng thế giới này vẫn luôn tồn tại và dành chỗ tồn tại cho những cá nhân dám đột phá!
Do đó, phía trên đã xuất hiện “chiêm bao náo động” thì ở phía dưới sao tránh khỏi sự dày vò “tấm thân với mảnh hình hài/ tấm thân thể với canh dài bão giông” cho được. Một sự dày vò mang đậm sắc màu của “tư duy biện chứng”. Và thế là cùng với cách nói lạ, suy tư lạ bắt đầu xoắn vào hình tượng. Rõ ràng “bão giông” kia trượt dài theo giấc “chiêm bao” để rồi chỉ còn lại những mảnh vỡ đầy hoài nghi, mơ hồ dẫn đến tình huống “còn hai con mắt khóc (con) người một con” chăng?
Và kìa, “tấm thân” khác gì so với “mảnh hình hài” và tại sao “tấm thân” rồi lại “tấm thân thể” đi liền ngay sau đó là phải chăng để diễn đạt và nhấn mạnh điều gì khi ý thơ từ biên độ nhỏ hẹp (hình hài) đã chuyển dịch sang một biên độ rộng lớn hơn rất nhiều (canh dài bão giông)? Có gì đó xáo trộn ở đây.
“Tấm thân” là nguyên vẹn, “mảnh hình hài” là sự nhỏ lẻ, mong manh. Có gom tụ lại hay tự tách mình ra thì con người vẫn phải đối mặt với một thế giới hiện hữu quá mênh mông, rợn ngợp. Ý thơ gợi ra sự khấp khởi và chông chênh của kiếp người trong một thế giới đầy rẫy những bí ẩn cần khám phá. Loài người đã sống với thế giới đầy huyễn hoặc này trong bao lâu và rồi sẽ kéo dài trong bao lâu nữa? Phải chăng bước đi của cảm thức là đi từ vi mô đến tầm vĩ mô để nhận thức cho bằng được thế giới này?
“Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông”
Tưởng rằng cảm xúc bắt đầu thăng hoa với bước đi của nhận thức, nhưng không phải, cách nói ngược tạo đà làm bệ phóng cho suy tư vụt đi: “Cá khe nước cõng lên đồng/ Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng”. Những câu thơ đến trong nhịp thơ nhanh diễn tả rất độc đáo sự quay thức của giác ngộ.
Ở đó có sự thay đổi quá nhanh như không kịp nói lời chia tay, đến độ sự thể diễn ra gây “hoang mang” trong chính hệ thống thức nhận kia. Giao thoa chưa đủ thì “giao thừa” đã tới “ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng” mất rồi. Triết học đã tung dây cương mà “triết lí nhân sinh” chưa chịu tung bờm. Điều gì đã trì níu con người mà không thể vụt theo kịp sự tiến hóa của tạo tác thiên nhiên?
“Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng”
Như Hoài Thanh từng nói “Càng đi sâu càng cảm thấy lạnh” (Thi nhân Việt Nam) về miền tình ái trong thi ca – cái lạnh của sự cô đơn đẫm đầy bản ngã. Ý thơ như bùng nổ hơn trong cái thế đậm đặc của thời gian: “Tạ từ tháng chạp quay nghiêng/ Âm trang sử lịch thu triền miên trôi”.
Đều là bóng dáng thời gian nhưng một đàng quay sang không kịp, một đàng cứ thế mà lặng lẽ trôi. Lời thơ như vậy là phải chăng tác giả muốn diễn đạt sự vô cùng vô tận của tạo hóa? Sự bất tận của vũ trụ luôn là những hấp lực đầy ám ảnh và mong muốn khám phá của con người. Tiếng khóc vang lên giữa “đêm mồng một giêng” do “hoang mang” bất định của con người chỉ là tiếng khóc lẻ loi, cô độc.
Sự lẻ loi kia nói lên điều gì trong khi đa số con người đều vui mừng khi xuân đến? Than ôi, cô độc triết học thì có khác gì với sự cô đơn trong nghệ thuật? Con người bơi mãi, bơi mãi mà rồi có tìm thấy được bến bờ của lời giải? Cô đơn hoàn cô đơn. Bất giác người viết bài này lại nghĩ đến thuyết tương đối của nhà vật lí thiên tài Anh-xtanh.
Thời gian và không gian ở một chiều khắc nào đó sẽ là một. Nhưng để hiểu được nó thì loài người đã và sẽ phải trả giá biết bao nhiêu khi đại đa số vẫn là những phận người đầy “hoang mang” trong cuộc đời này!
Thi sĩ Bùi Giáng và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ảnh: ITN
Chia sẻ với chính mình
Và rồi đi tìm, tìm mãi mà cứ luẩn quẩn mông lung thì tránh sao khỏi sự mỏi mệt. Không gian và thời gian cứ như trôi vô định trong vũ trụ này (“bóng mây, trời cũ”, “thu triền miên trôi”, “đêm mồng một giêng”). Và mặc cho tất cả, đã đến lúc cần phải gạt đi những vướng mắc của âu lo phiền muộn. Những tâm tư lại như đang được tưới tẩm bởi lời Phật dạy: hãy buông bỏ để tìm hạnh phúc!
Thế là điệp ngữ xuất hiện. Bốn chữ “bỏ” đứng đầu bốn dòng thơ như công khai xác nhận rằng bốn trụ cột của cả một đời người đã được cắt cho phăng teo đi. Phải chăng đó là ước muốn giũ thật sạch để nhẹ nhàng cho cuộc tiến vào sâu thẳm cõi tiên thiên?
Bỏ lại không gian sinh tồn thiên nhiên “bỏ trăng gió lại cho đời”; bỏ lại đời sống tâm lí yêu thương đôi lứa ngập tràn hò hẹn “bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa”; bỏ lại cả một thế giới nội tâm ngập tràn những hứa hẹn, tràn đầy những mê dụ “bỏ người yêu bỏ bóng ma”; và rồi cuối cùng là bỏ đi thế giới tâm linh hư huyễn đầy những mộng ảo đắm đuối say mê “bỏ hình hài của tiên nga trên trời”.
Một sự gột rửa gần như đầy đủ để có thể tiến tới một trạng thái tinh thần đặc biệt mà hy vọng tiếp cận với một thế giới mà ở đó sẽ có câu trả lời cho những ý tưởng đẫm triết học về nguồn cội con người. Một sự ao ước. Một sự dấn thân. Một sự tu tâm tu tính.
“Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời”
“Bây giờ” là hiện tại, là như một yếu tố mặc định để xác nhận rằng hiện thực cái nhìn của nhận thức “bây giờ riêng đối diện tôi”. Tâm thức như được chia hai trong một chỉnh thể của cảm quan nhận thức. Tách “riêng đối diện tôi” là cách nói tận cùng của nhận thức. Cái tôi đã được khách quan hóa.
Như câu trả lời cho một chuỗi những nghi hoặc hay nói cách khác đó là cái đích phải đến và đã đến cho một cuộc hành trình thức ngộ dài dằng dặc. Và rồi, như một sự thể không khác, sau khi đã cố gắng hết sức, tìm về bản thể con người thì nhân vật trữ tình vẫn chưa có được câu trả lời đầy đủ và thỏa mãn cho tất cả, (vì nó có thể thỏa mãn cho chúng ta hay không là còn do tâm tư suy nghĩ ở mỗi người), lẽ dĩ nhiên con người lại sẽ tiếp tục đi tìm cho bằng được câu trả lời “tôi là ai, tôi đến thế giới này để làm gì?”.
Do vậy, thi sĩ, triết gia, giáo sư Bùi Giáng đã kết thúc bài thơ thật đắc địa “còn hai con mắt khóc (con) người một con” là cũng phải! Tôi khóc người, và tôi khóc cả cho tôi vì trong hành trình dằng dặc đó của con người chắc chắn có tôi.
Do vậy, cả đến lời dạy của tiền nhân (“giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”) hình như cũng được thi sĩ Bùi Giáng sử dụng… ngược (đảo chiều trước sau) thì có gì của con người, của cuộc đời mà ông lại chẳng tung tẩy cho vung tóe lên? “Chiêm bao náo động riêng còn hai tay”, “Còn hai con mắt khóc người một con”.
Một sự bóc tách gần như đến tận cùng để truy tìm cho được vóc dáng bản thể nhưng cuối cùng vẫn biệt vô âm tín: “Bây giờ riêng đối diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con”. Khóc cho chính tôi, cho con người trong sự vô vọng đỉnh điểm.
Nhưng dẫu không hy vọng truy nguyên để tìm cho được bản thể con người mình, mình là ai, mình từ đâu đến, thì sự sụt sùi đầy ám ảnh kia vẫn ánh lên vẻ đẹp nhân văn, một sự chia sẻ với chính mình – với chính tâm thế luôn vượt lên tất cả để biết mình là ai mà rồi lại phải ngậm ngùi chấp nhận.
Yếu tố thời gian xuất hiện như một hiện hữu xác nhận rằng cái nhìn xuyên thấu bản thể “bây giờ riêng đối diện tôi” mà bung ra hành vi “khóc người” để giải thích rằng dù sao con người vẫn luôn là một thực thể vô cùng khó hiểu “còn hai con mắt khóc người một con”.
Hơn nửa thế kỷ, cho dù có hiểu như thế nào thì “Mắt buồn” vẫn luôn là một thi phẩm hay, hút hồn độc giả. Đọc “Mắt buồn” người ta mới hiểu thế nào là thầy chữ Bùi Giáng – Bàng Giúi. Con chữ của ông cứ đảo lộn tung lên nhưng lại không hề gây cảm giác khó chịu nơi người đọc khi tiếp nhận văn bản. Cái lạ ấy nó là thần chữ, nó là cốt cách của thi nhân, âu cũng là cái duyên chữ nghĩa, và cái duyên chữ nghĩa ấy rất ít tác giả có được như ông.