xuân

'Sợi dây vàng' Kim Lũ: Sản sinh 5 vị tiến sĩ nức tiếng Thăng Long

Không chỉ nổi tiếng với sự giàu có, làng Kim Lũ còn được mệnh danh là “sợi dây vàng” về học vấn, nơi sản sinh 5 vị tiến sĩ xuất sắc, góp phần làm rạng danh truyền thống hiếu học và văn hóa Thăng Long - Hà Nội.

Làng Kim Lũ (Kẻ Lủ), còn gọi là Lù Trung, là một làng cổ ven đô, tọa lạc ở phía Nam kinh thành Thăng Long. Mãi sau này, Kẻ Lủ mới có tên chữ là Kim Lũ - nghĩa là “sợi dây vàng”, tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng và khởi nguồn cho truyền thống hiếu học của vùng đất này.

Từ phi tần sinh hoàng tử đến làng khoa bảng

Làng Lủ xưa gồm ba xóm lớn: Lủ Cầu, Lủ Trung và Lủ Văn, về sau phát triển thành ba làng riêng là Kim Giang, Kim Lũ và Kim Văn. Đầu thế kỷ 16, vùng Lủ đã đông dân cư. Khi nhà Mạc chiếm ngôi nhà Lê, một phi tần mang thai chạy về Lủ và sinh hoàng tử Lê Duy Ninh tại xứ Đồng Quan, thuộc Lủ Trung. Khu vườn nơi bà sinh bỗng sáng rực, nên được gọi là Tường Quang. Hoàng tử sau này lên ngôi, hiệu là Lê Trang Tông.

Cuối thời Lê, Kim Lũ là xã thuộc tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín. Đến đầu triều Nguyễn, việc tách Kim Lũ thành ba làng Kim Giang, Kim Lũ, Kim Văn diễn ra muộn. Năm 1942, xã Kim Lũ thuộc Đại lý Hoàng Long, Hà Nội. Trong kháng chiến chống Pháp, xã đổi tên thành Tam Kim, gồm ba làng có chữ “Kim”. Năm 1949, hai làng Thượng Đình và Hạ Đình sáp nhập vào Tam Kim. Sau hòa bình, Thượng Đình và Hạ Đình tách về Nhân Chính, Tam Kim nhập thôn Đại Từ và đổi tên thành xã Đại Kim.

soi-day-vang-kim-lu-san-sinh-5-vi-tien-si-1.jpg Bia đá do Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hợp soạn viết.

Từ thời Minh Mạng, làng Kim Lũ thuộc tỉnh Hà Nội, sau chuyển về tỉnh Cầu Đơ (sau là Hà Đông), rồi trở thành một phần của Tam Kim, gồm: Kim Giang, Kim Lũ và Kim Văn. Trong thời kháng chiến chống Pháp, Kim Lũ thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, sau lại về quận Hoàng Mai.

Kim Lũ nằm cạnh dòng sông Tô Lịch - con sông từng được gọi là sông Nghịch Thủy vì có lúc nước chảy ngược từ sông Nhuệ. Sông Tô Lịch không chỉ là con hào bảo vệ kinh thành Thăng Long, mà còn là nguồn cảm hứng thi ca, là nơi phát tích của nhiều làng khoa bảng lân cận.

Kim Lũ hình thành từ rất sớm, vào thế kỷ 16 có ba dòng họ lớn đến cư trú là Hồng, Nguyễn và Hoàng. Họ Hồng ban đầu chưa có người đỗ đại khoa, nhưng đến thế kỷ 17, Hồng Hạo (đời thứ 7) là người đầu tiên đỗ đại khoa, ghi tên vào bia vàng - cũng là người khai khoa cho Kim Lũ.

Họ Nguyễn xuất hiện từ thế kỷ 16, phát triển nhiều chi, sản sinh ra các nhân vật xuất chúng như Nguyễn Công Thái, Nguyễn Trọng Hợp và Nguyễn Văn Siêu. Đây là dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan to trong triều. Họ Hoàng nổi bật vào cuối thế kỷ 19 với Hoàng Đạo Thành và Hoàng Đạo Thúy. Những dòng họ này đã tạo dựng nên sự nghiệp khoa bảng và văn hóa của làng Kim Lũ.

Người Kim Lũ không chỉ nổi bật về học vấn và đóng góp cho văn hóa Thăng Long, mà còn khéo léo trong lao động nông nghiệp và các nghề chế biến từ nông nghiệp, lâm sản, như làm bỏng, kẹo, bánh đa khoai, cốm, chè lam, hay nghề thủ công như quạt thước, quạt Lủ…

Sự thành đạt của những người làng Lủ còn gắn liền với công sức của những người mẹ, người vợ. Phụ nữ Kim Lũ cần cù, đảm đang, tần tảo giúp chồng con, coi thành công của gia đình là mục đích sống và niềm tự hào của mình. Ca dao xưa có câu: “Em là con gái Lủ Trung/ Bán đường, mua bút cho chồng đi thi/ Nữa mai chiếm bảng vinh quy/ Bõ công sớm tối bốn thì công lênh”.

Người được vua ban “Tứ Trạng nguyên đồng”

Theo số liệu thống kê từ nguồn sử đăng khoa, Kim Lũ có 5 tiến sĩ, đều là những người có đóng góp to lớn cho giáo dục, chính trị, ngoại giao, văn hóa và văn học. Người đầu tiên là Hồng Hạo (1677 - 1749) đỗ Tiến sĩ khoa Canh Dần (1710), đời vua Lê Dụ Tông. Văn bia đề danh cho biết, khoa thi này triều đình lấy 21 tiến sĩ, Hồng Hạo tên đứng thứ 7 trong hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.

Ông làm quan từ Hàn lâm viện hiệu thảo đến Tham chính sứ Kinh Bắc và Đông các Đại học sĩ, hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần tận tâm. Ông từng cáo quan về nhà 10 năm rồi lại được mời về triều giữ chức Tả Thị lang bộ Hình, khi mất được tặng chức Tả Ngạn bá. Ông là tác giả sách của “Hoàng Lê chính yếu toàn thư”.

Người thứ 2 đỗ đại khoa là Nguyễn Công Thái (1684 - 1758). Theo gia phả, ông thuộc đời thứ 6, tên thường gọi là Nguyễn Công Thể. Nhà sử học Phan Huy Chú nhận định: “Tính ông trong sạch, giản dị, thẳng thắn, có công lớn lập ngôi chúa, nên được Trịnh Doanh tin cậy”. Hậu duệ soạn bia “Quan Thượng thư Tể tướng” mô tả ông uy nghi, mặt đầy đặn, hai gò má cao, tai trắng, nổi tiếng thông minh, học giỏi, trầm tĩnh, cứng rắn và mưu lược.

Ông bắt đầu nổi bật từ kỳ thi năm 1703 đỗ khảo hạch thứ nhất, đỗ đầu kỳ thi Hương (Giải nguyên), kỳ thi Hội năm Ất Mùi (1715) đỗ Hội nguyên, thi Đông các đỗ tam danh, ngang hàng Thám hoa.

Vì thành tích xuất sắc, triều đình tặng bức đại tự “Tứ Trạng nguyên đồng” (ban cho như Trạng nguyên). Ngay sau đó, ông được giao nhiều chức vụ quan trọng: Giám sát Ngự sử Hải Dương, quan xứ Thanh Hoa, Đốc đồng Nghệ An, Hiến sát Kinh Bắc, Tham chính bát tri lại, Thụ tự khanh Tế tửu Quốc Tử Giám.

Năm 1740, khi làm Tả thị lang bộ Lại, Nguyễn Công Thái cùng Nguyễn Quý Cảnh mưu sự lật đổ Trịnh Giang, đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa, lập lại trật tự trong triều. Ông được phong Suy trung dực vận công thần, Tham tụng, sau thăng Thượng thư bộ Lễ. Chúa Trịnh Doanh tin cẩn giao cho ông dạy Thế tử Trịnh Sâm, khiến thái tử rất kính trọng.

Không chỉ xuất sắc trong triều chính, ông còn tham gia bảo vệ biên cương. Năm Mậu Thân (1726), ông được triều đình cử cùng Nguyễn Huy Nhuận đi Tuyên Quang phân định biên giới với nhà Thanh, dựng bia đá xác lập chủ quyền ở sông Đỗ Chú, ổn định biên giới phía Bắc gần 300 năm.

Văn bia tại từ đường ghi: “Trong hơn 40 năm làm quan, ông giữ độc lập, không dựa dẫm ai, bên trong khoan hòa, bên ngoài phép tắc, văn võ toàn tài, công lao không nhỏ nhưng khiêm tốn coi đó là chức phận”. Ông từng bị đưa trấn thủ Sơn Nam nhưng sau lại được mời làm quốc lão, cuối cùng xin về trí sĩ tại quê nhà Kim Lũ.

Nguyễn Công Thái được ban lộc điền 100 mẫu để sử dụng cho con cháu và dân làng. Chúa Trịnh Sâm nhiều lần muốn tặng ông nhà mới, nhưng ông từ chối. Ông qua đời năm 1758, thọ 75 tuổi.

soi-day-vang-kim-lu-san-sinh-5-vi-tien-si-4.jpg Tượng danh nhân Nguyễn Văn Siêu trong nhà thờ họ Nguyễn.

Rạng danh khoa bảng Kim Lũ

Người thứ ba đỗ đại khoa là Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872), học trò Phạm Quý Thích, đỗ Á nguyên khoa Ất Dậu (1825) và Phó bảng (1839), mở trường tư Phương Đình để dạy học. Ông từng đi sứ Trung Hoa, làm Án sát, Tuần phủ và nhiều chức vụ khác.

Ông khắc in nhiều sách quý như: Phương Đình thi tập, địa chí, văn loại, tùy bút lục, Địa dư toàn biên, Tứ thư bị giảng, đóng góp vào giáo dục và văn hóa Thăng Long. Nguyễn Văn Siêu còn là kiến trúc sư, tổ chức tu bổ đền Ngọc Sơn, đình Trấn Ba, cầu Thê Húc, tháp Bút, đài Nghiên tại hồ Hoàn Kiếm, tạo nên quần thể kiến trúc mang đậm bản sắc Á Đông.

Kế tiếp là Nguyễn Trọng Hợp (1834 - 1902), là học trò của Vũ Tông Phan và Nguyễn Văn Lý. Ông đỗ thi Hương khoa Mậu Ngọ đời Tự Đức thứ 11 (1858), sau đó đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Sửu, niên hiệu Tự Đức 18 (1865). Ông làm quan trải qua một số chức, như Tu soạn viện Tập hiền, Tri phủ Xuân Trường, Hàn lâm viện Thị độc, Thượng thư bộ Lại, Đại thần Cơ mật viện.

Với chức vụ nào ông cũng làm việc hết sức trách nhiệm. Khi Pháp đang tìm cách thôn tính nước ta, triều đình nhà Nguyễn đang đứng trước rất nhiều khó khăn và thử thách. Ông đã được triều đình Huế giao phó 3 lần cùng phái đoàn của triều đình thương thảo và ký với Pháp một số hiệp ước.

Đương thời, có khá nhiều ý kiến trái chiều về ông. Song, sau này khi nhìn nhận lại lịch sử, người đời mới hiểu việc đặt bút ký các hiệp ước lúc ấy với Chính phủ Pháp là việc không thể khác vì thời thế, thế thời. Đấy cũng là phương án mà triều đình và Nguyễn Trọng Hợp chọn để tránh tối đa tổn thất, ít nhất về người và của cho quốc gia. Vì nếu không ký với Pháp các hiệp ước đó, Pháp sẽ đánh quyết liệt và giành bằng được mục đích.

Cháu nội Nguyễn Trọng Hợp là Nguyễn Sĩ Cốc (sinh năm 1888), tên thật là Nguyễn Sĩ Giác. Năm Canh Tuất, đời Duy Tân (1910) ông đỗ Tiến sĩ. Giai đoạn này nước ta đang dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Chán cảnh đất nước dưới sự cai trị của thực dân, dân chúng bị bóc lột lầm than, Nguyễn Sĩ Cốc không ra làm quan để mà tham gia vào các hoạt động của nhà yêu nước Phan Bội Châu, rồi ở nhà viết sách, truyền cảm hứng đấu tranh cho thế hệ trẻ.

Ngoài 5 người đỗ đại khoa, Kim Lũ còn khoảng 15 người đỗ trung khoa (cử nhân) và tiểu khoa (tú tài). Trong số đó, Cử nhân Nguyễn Huy Túc - con của Tiến sĩ Nguyễn Công Thái, làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lại, Đốc đồng trấn Cao Bằng, tước Tô phái hầu. Con, cháu ông nhiều người đỗ đạt danh tiếng lớn như án sát Nguyễn Danh Kế, và thi sĩ lừng danh Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.

Đặc biệt, Cử nhân Hoàng Đạo Thành từng làm Tri phủ Đa Phúc, sau cáo quan ở nhà viết sách, là tác giả các tác phẩm nổi tiếng: Đại Nam hạnh nghĩa liệt nữ truyện, Việt sử tân ước toàn biên. Con trai Hoàng Đạo Thành là Hoàng Đạo Thúy, nhà văn hóa nổi tiếng, tác giả các sách: Danh nhân Hà Nội, Phố phường Hà Nội, Trai nước Nam làm gì...

Dù Kim Lũ chỉ có khoảng 5 tiến sĩ, nhưng các nhân vật này đã đóng góp đa dạng và sâu rộng vào giáo dục, chính sự, ngoại giao, văn hóa, tu bổ di tích và văn học. Họ thể hiện tinh thần hiếu học, lòng yêu nước, trách nhiệm với quê hương và đất nước, góp phần xây dựng Thăng Long - Hà Nội trở thành trung tâm văn hiến, giàu truyền thống và thịnh vượng.

Truyền thống hiếu học, tư tưởng khai phóng, tinh thần trách nhiệm và đóng góp văn hóa - văn học của Kim Lũ đã được hun đúc qua nhiều thế hệ. Hệ thống di tích, đình, chùa, nhà thờ họ, văn chỉ, lăng mộ không chỉ là nơi thờ tự, mà còn là minh chứng sống động cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa và đóng góp quốc gia.

Những đóng góp của các tiến sĩ Kim Lũ, từ Hồng Hạo, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Trọng Hợp đến Nguyễn Sĩ Cốc đã tạo nên một Kim Lũ giàu truyền thống học vấn, văn hóa, yêu nước và sáng tạo, góp phần làm nên danh tiếng và giá trị lịch sử - văn hóa của vùng đất ven Thăng Long.

Kim Lũ sở hữu một hệ thống văn hóa phong phú, phản ánh tư tưởng, tâm hồn và truyền thống hiếu học của người dân. Đình làng thờ Tản Viên Sơn, lăng mộ và miếu thờ công chúa Trịnh Thị Ngọc Hoa, văn chỉ thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền, nơi tổ chức lễ tế xuân thu nhị kỳ. Các nhà thờ họ vẫn tồn tại, nhiều di tích đã được xếp hạng. Hệ thống này không chỉ là nơi thờ tự, mà còn là trung tâm giáo dục, khuyến khích con em trong làng phấn đấu thi đỗ và rèn luyện đạo đức.