xuân

Kháng kháng sinh: Thách thức hiện tại và tương lai

(Chinhphu.vn) - Kháng kháng sinh đang là một mối đe dọa cấp bách đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu. Nếu không có hành động kịp thời và hiệu quả, tỷ lệ tử vong có thể đạt mức tương đương tử vong do ung thư kể từ năm 2050.
Kháng kháng sinh: Thách thức hiện tại và tương lai- Ảnh 1.

Hội thảo khoa học "Đề kháng kháng sinh và chiến lược điều trị nhiễm trùng đa chuyên khoa" - Ảnh: VGP

Hướng tới Tuần lễ tăng cường nhận thức về kháng kháng sinh, Hội Hô hấp Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học "Đề kháng kháng sinh và chiến lược điều trị nhiễm trùng đa chuyên khoa", nhằm thúc đẩy hành động, nâng cao nhận thức và kêu gọi sử dụng kháng sinh hợp lý - vì một tương lai điều trị bền vững.

Mối đe dọa không còn thầm lặng

Kháng kháng sinh (AMR) là một mối đe dọa cấp bách đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu, khi có thể gây ra ít nhất 10 triệu ca tử vong mỗi năm và đạt mức tương đương tử vong do ung thư kể từ năm 2050 nếu không có hành động kịp thời và hiệu quả. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ngoài gánh nặng tử vong và bệnh tật, AMR còn kéo theo chi phí kinh tế đáng kể.

Việt Nam là một trong những quốc gia đang phải đối mặt với mối đe dọa ngày càng gia tăng của tình trạng kháng kháng sinh, bắt nguồn từ việc sử dụng kháng sinh không cần thiết trong các trường hợp không nhiễm khuẩn, hoặc không hợp lý đối với từng loại vi khuẩn trong nhiều năm qua. Đặc biệt, trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cộng đồng, một số trường hợp buộc phải sử dụng kháng sinh liều cao cho trẻ em.

Theo nghiên cứu của Torumkuney và cộng sự, tỷ lệ kháng thuốc của chủng vi khuẩn phế cầu và Haemophilus Influenzae - hai tác nhân chính gây viêm phổi, viêm tai giữa và viêm xoang - hiện đang ở mức báo động.

Trước thực trạng trên, các chuyên gia tại hội thảo đã nhấn mạnh sự cần thiết của phối hợp hành động đa chuyên khoa nhằm kiểm soát AMR, đặc biệt trong bối cảnh lạm dụng kháng sinh cho các bệnh lý hô hấp nhẹ, vẫn còn phổ biến hiện nay.

GS Đinh Xuân Anh Tuấn, nguyên Hiệu trưởng Đại học Corse, Cộng hòa Pháp chia sẻ, trong năm 2019, cứ 5 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong thì có 1 em tử vong do đề kháng kháng sinh. Hậu quả của việc sử dụng kháng sinh khi không cần thiết là chúng tiêu diệt cả vi khuẩn có lợi bảo vệ cơ thể, tạo điều kiện cho vi khuẩn đề kháng gia tăng, phát triển và chiếm ưu thế, đồng thời truyền cơ chế kháng thuốc sang các vi khuẩn khác.

Kháng kháng sinh đang là vấn đề cực kỳ nghiêm trọng1,5 triệu người tử vong mỗi năm do kháng kháng sinhCảnh báo loại thuốc kháng sinh giả trên thị trườngChống lạm dụng kháng sinh trên người và vật nuôi   Chống lạm dụng kháng sinh trên người và vật nuôi
 19/11/2021 14:31

"Lạm dụng kháng sinh đang đẩy nhanh quá trình này, khiến kháng thuốc trở thành một vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Nguy hại hơn nữa, tình trạng kháng kháng sinh ngày càng gia tăng đang vô hiệu hóa khả năng diệt khuẩn của kháng sinh, làm tăng nguy cơ tử vong do các bệnh nhiễm trùng", GS Đinh Xuân Anh Tuấn cho biết.

Kiểm soát kháng sinh toàn diện

Ở góc độ cơ sở điều trị, PGS.TS.BS Trần Minh Điển, Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương, Chủ tịch Hội Nhi khoa Việt Nam lấy ví dụ, theo dữ liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương, bệnh hô hấp chiếm tỷ lệ nhập viện cao nhất từ năm 2020 - 2024 và có xu hướng gia tăng mỗi năm. Các chủng vi khuẩn gây viêm phổi cộng đồng ở trẻ em tại miền Bắc Việt Nam đa số có tỷ lệ kháng cao với nhóm beta-lactam thông thường và macrolide - những kháng sinh được kê đơn phổ biến hiện nay.

Do đó, chiến lược quản lý kháng sinh trong nhi khoa cần dựa trên khung phân loại của tổ chức WHO. Khung này gồm 3 nhóm kháng sinh: nhóm tiếp cận, nhóm theo dõi và nhóm dự trữ, với mục tiêu kê đơn đúng và hợp lý.

Bên cạnh tuân thủ chiến lược quản lý và sử dụng kháng sinh, cần thúc đẩy chiến lược chẩn đoán nhằm chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh, giúp chỉ định kháng sinh đúng và đủ, giảm bớt kê đơn kháng sinh với các trường hợp nhiễm virus.

PGS.TS.BS Phạm Tuấn Cảnh, Phó Chủ tịch Hội Tai mũi họng Việt Nam cũng cho biết, nhiễm khuẩn tai mũi họng và viêm phổi cộng đồng là bệnh lý hô hấp phổ biến ở người lớn, góp phần đáng kể vào số ca nhập viện và tử vong, đặc biệt ở người cao tuổi và có bệnh nền.

Hiện nay, một số dữ liệu cho thấy, chủng vi khuẩn phế cầu gây bệnh hô hấp đang giảm đáng kể mức độ nhạy cảm với các kháng sinh thuộc nhóm cephalosporin thế hệ 2 và nhóm macrolide. Đây là dấu hiệu cảnh báo về tình trạng kháng thuốc ngày càng phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa xét nghiệm vi sinh và lựa chọn kháng sinh hợp lý trong thực hành lâm sàng.

GS.TS.BS Ngô Quý Châu, Chủ tịch Hội Hô hấp Việt Nam cũng nhấn mạnh, việc kiểm soát kháng kháng sinh cần được tiếp cận một cách toàn diện, đặc biệt trong ba lĩnh vực: hô hấp, tai mũi họng và nhi khoa – nơi kháng sinh được sử dụng phổ biến nhất.

Để xây dựng chiến lược quản lý nhiễm khuẩn hiệu quả, cần dựa trên dữ liệu vi sinh cập nhật tại các bệnh viện, các nghiên cứu như SOAR (chương trình nghiên cứu giám sát kháng sinh) và khảo sát hành vi sử dụng thuốc.

Đồng thời, việc đồng bộ hóa hướng dẫn điều trị và triển khai các chương trình đào tạo cho nhân viên y tế ở mọi cấp là yếu tố then chốt nhằm bảo vệ hiệu quả kháng sinh lâu dài.

Hiền Minh