xuân

Dấu son 80 năm giáo dục Việt Nam

Giáo dục Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954

Giai đoạn 1945 – 1954 là một thời kỳ đặc biệt và đầy thử thách trong lịch sử dân tộc. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đất nước đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: “thù trong giặc ngoài”, kinh tế kiệt quệ, hơn 90% dân số mù chữ. Chính phủ coi xóa nạn mù chữ, chấn hưng giáo dục là nhiệm vụ cấp bách, phục vụ kháng chiến, kiến quốc.

Từ Toàn quốc kháng chiến (1946), giáo dục chuyển hướng thành “giáo dục kháng chiến”: vừa phục vụ chiến đấu, vừa chuẩn bị cho kiến quốc. Cuộc Cải cách giáo dục 1950 đã thúc đẩy phong trào học tập toàn dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi Điện Biên Phủ 1954.

Đường lối giáo dục trong giai đoạn này mang đậm tính cách mạng, bám sát thực tiễn lịch sử và thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay sau Cách mạng, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là "diệt giặc dốt", được triển khai mạnh mẽ qua phong trào Bình dân học vụ, biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân.

Song song đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: dân tộc hoá (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hoá (chống lối học giáo điều), và đại chúng hoá (phục vụ đông đảo nhân dân).

Khi cuộc kháng chiến lan rộng, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm "Học để kháng chiến". Đỉnh cao của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai.

Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.

image.jpg Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm một lớp học của phong trào Bình dân học vụ. Ảnh tư liệu

Một số thành tựu nổi bật của giáo dục giáo dục giai đoạn này như sau:

Xây dựng nền tảng tư tưởng mới: nền giáo dục được xác lập trên các nguyên tắc tiến bộ: dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hóa, với đỉnh cao là cuộc Cải cách giáo dục năm 1950 và việc đưa tiếng Việt thành ngôn ngữ giảng dạy chính thức ở mọi cấp học.

Xóa nạn mù chữ thành công: phong trào Bình dân học vụ và Bổ túc văn hóa là một kỳ tích, xóa mù chữ cho hàng triệu người và nâng cao dân trí, củng cố niềm tin vào chế độ mới.

Duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân: bất chấp chiến tranh, hệ thống trường lớp từ mầm non đến đại học không ngừng được mở rộng. Nhiều loại hình trường mới ra đời để đáp ứng nhu cầu kháng chiến, đặc biệt là các trường cho con em dân tộc thiểu số và học sinh miền Nam.

Đào tạo thế hệ “Công dân kháng chiến”: nền giáo dục đã đào tạo thành công một thế hệ cán bộ, học sinh, sinh viên có lòng yêu nước, trở thành nguồn nhân lực cốt cán cho thắng lợi của cuộc kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước sau này.

khai-giang.jpg Một lễ khai giảng năm học 1972 – 1973. Ảnh tư liệu

Giáo dục Việt Nam giai đoạn 1954-1975

Giai đoạn 1954 – 1975 là bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam, khi đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế và con đường phát triển đối lập. Miền Bắc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn miền Nam nằm dưới quyền chi phối của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Bối cảnh đó đã tác động sâu sắc khiến nền giáo dục giai đoạn này trở nên đa dạng, đạt được những thành tựu nhất định và có sự khác biệt về bản chất, mục tiêu của giáo dục hai miền.

Trong giai đoạn 1954-1975, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là một mặt trận trọng yếu gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Chủ trương nổi bật được thể hiện qua cuộc Cải cách giáo dục năm 1956 và Nghị định số 1027-TTg (27/8/1956) ban hành Chính sách giáo dục phổ thông, xác định mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ toàn diện, trung thành với Tổ quốc, có tài, có đức để xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất đất nước.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong giai đoạn này còn được thể hiện một cách toàn diện và sâu sắc trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960).

Văn kiện tiếp tục nhấn mạnh giáo dục phải phục vụ đường lối cách mạng, bồi dưỡng thế hệ lao động làm chủ, có văn hoá, kỹ thuật, sức khoẻ, góp phần đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ nhân dân.

sgk-mien-bac-1.jpg Sách Học vần tập 2, xuất bản ở miền Bắc năm 1973. Ảnh: VTC News.

Các nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục kết hợp lao động sản xuất và nhà trường gắn với xã hội trở thành kim chỉ nam cho toàn ngành.

Đặc biệt, trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt, Chỉ thị 169-CT/TW ngày 14/02/1968 của Ban Bí thư đã nhấn mạnh nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ, lao động kỹ thuật và chuẩn bị nguồn nhân lực cho công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng là giáo dục vừa phục vụ trực tiếp sự nghiệp kháng chiến, vừa chuẩn bị chiến lược lâu dài cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Thành tựu nổi bật nhất của giáo dục trong giai đoạn 1954 - 1975 là miền Bắc đã cơ bản xóa nạn mù chữ. Đến năm 1958 có 93,4% nhân dân độ tuổi 12 – 50 ở đồng bằng và trung du biết đọc, biết viết. Đây là cơ sở cho việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, kinh tế của đất nước.

Cuộc cải cách giáo dục 1956 đã xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, từ mầm non đến đại học, mở rộng mạng lưới đến tận các xã. Hàng vạn cán bộ, trí thức, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên được đào tạo, trở thành lực lượng chủ chốt xây dựng miền Bắc và chi viện cho miền Nam.

Ngay cả trong chiến tranh, giáo dục miền Bắc vẫn duy trì ổn định, bảo đảm “học không gián đoạn”. Quy mô giáo dục tăng đều, số học sinh phổ thông từ hơn 4,6 triệu (1972-1973) lên hơn 5,2 triệu (1974-1975). Ở miền Nam, trong vùng giải phóng, nền giáo dục cách mạng đã chứng minh sự linh hoạt, bền bỉ, xây dựng mạng lưới trường lớp dân chủ, đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến, in ấn và phổ biến hàng triệu bản sách giáo khoa.

dai-tuong-vo-nguyen-giap-8790.png Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình chụp ảnh lưu niệm với các nhà giáo Thanh Hóa trong đội văn nghệ chào mừng Hội nghị toàn quốc. Ảnh tư liệu: Sở GD&ĐT Thanh Hóa.

Giáo dục Việt Nam giai đoạn 1975-1985

Giai đoạn 1975 – 1986 là một chặng đường lịch sử đặc biệt, ghi dấu những nỗ lực phi thường của ngành Giáo dục Việt Nam. Quá trình phát triển của giáo dục trong thời kỳ này có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn 1975 – 1978, tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách hậu chiến: tiếp quản, ổn định và thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước; giai đoạn 1979 – 1986: triển khai cuộc Cải cách giáo dục toàn diện lần thứ ba trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc.

Tháng 6 năm 1975, chỉ hơn một tháng sau ngày giải phóng, Ban Bí thư đã ban hành hai chỉ thị lịch sử (số 221-CT/TW và 222-CT/TW) về công tác giáo dục ở miền Nam. Các chỉ thị này đóng vai trò kim chỉ nam cho giai đoạn đầu, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm:

Tiếp quản và cải tạo: nhanh chóng đưa giáo dục miền Nam trở lại hoạt động bình thường, cải tạo nền giáo dục cũ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Xoá mù chữ và Bổ túc văn hoá: xác định đây là nhiệm vụ hàng đầu để nâng cao dân trí, tạo nền tảng đào tạo cán bộ cho chế độ mới.

Phát triển hệ thống giáo dục: mở rộng mạng lưới trường lớp từ mầm non đến phổ thông, ưu tiên tiếp nhận con em nhân dân lao động.

Thống nhất quản lý: quốc hữu hoá toàn bộ trường tư thục, đưa hệ thống giáo dục đại học vào dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.

Định hướng chiến lược này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng IV (1976), xác lập nền tảng tư tưởng cho sự phát triển giáo dục: “Giáo dục là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc”. Giáo dục được xác định là một bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá, với mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn Cải cách giáo dục toàn diện (1979 – 1986): Nghị quyết 14-NQ/TW (tháng 1/1979) về Cải cách giáo dục được xem là văn kiện pháp lý quan trọng nhất, chính thức khởi động cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba. Nghị quyết này mang tính chất như một “cương lĩnh cải cách giáo dục lâu dài”, đề ra các mục tiêu và giải pháp cốt lõi:

Thống nhất hệ thống phổ thông: xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc, chia làm hai bậc: phổ thông cơ sở (9 năm) và phổ thông trung học (3 năm), xoá bỏ sự khác biệt giữa hệ 10 năm ở miền Bắc và 12 năm ở miền Nam.

Đổi mới nội dung và phương pháp: biên soạn một bộ chương trình và sách giáo khoa thống nhất trên cả nước theo tinh thần hiện đại, thiết thực, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

Thực hiện nguyên lý giáo dục mới: nhấn mạnh nguyên lý “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh.

Mục tiêu đào tạo: xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với đầy đủ các phẩm chất về trí tuệ, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ.

Tuy nhiên, trước bối cảnh khủng hoảng kinh tế-xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) đã có cái nhìn thẳng thắn và thực tế hơn. Văn kiện Đại hội lần đầu tiên công khai thừa nhận “vấn đề lớn nhất hiện nay là chất lượng giáo dục giảm sút nghiêm trọng”. Từ đó, quan điểm chỉ đạo đã có sự điều chỉnh quan trọng: chuyển từ những mục tiêu cải cách vĩ mô, tham vọng sang việc tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc nhất, với phương châm phát triển giáo dục “phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế quốc dân”.

Một số thành tựu nổi bật của giáo dục giáo dục giai đoạn này như sau:

Thống nhất thành công hệ thống giáo dục quốc dân: đây là thành tựu vĩ đại nhất, có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Việc xoá bỏ sự chia cắt về cơ cấu, nội dung và quản lý đã tạo ra một nền tảng pháp lý và tổ chức vững chắc cho sự phát triển giáo dục trong các giai đoạn tiếp theo.

Giữ vững và mở rộng quy mô giáo dục: bất chấp khủng hoảng, mạng lưới trường lớp từ mầm non đến đại học vẫn được duy trì và mở rộng đến khắp các vùng miền, đảm bảo quyền học tập cho hàng chục triệu người dân, thể hiện sự ưu việt của chế độ.

Thành công trong xoá mù chữ và nâng cao dân trí: phong trào đã góp phần quan trọng nâng cao mặt bằng văn hóa chung, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.

Xây dựng hệ thống đường lối, chính sách giáo dục toàn diện: giai đoạn này đã hình thành và thể chế hoá một cách hệ thống các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về giáo dục XHCN, trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của ngành trong suốt một thời gian dài.

1-2189.jpg

Giáo dục Việt Nam giai đoạn 1986-2000

Giai đoạn 1986-2000 là chặng đường lịch sử đầy biến động, chứng kiến cuộc chuyển mình mạnh mẽ của đất nước và của giáo dục Việt Nam. Từ trong khủng hoảng, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đã đưa đất nước vượt qua khó khăn, hồi phục và phát triển nhanh chóng, tạo nền móng cho sự phát triển trong thế kỷ mới. Gắn liền với tiến trình đổi mới của đất nước, ngành Giáo dục đã nỗ lực đổi mới, không chỉ vượt qua được khủng hoảng mà còn có những bước phát triển quan trọng, đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Trong bối cảnh đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế- xã hội- chính trị nghiêm trọng và sự suy thoái của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khởi xướng đường lối đổi mới, mang tính bước ngoặt về tư duy phát triển với sự chuyển dịch từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về giáo dục, Đại hội đã chỉ ra những yếu kém và đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy, coi giáo dục là một bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp đổi mới chung. Đại hội cũng xác định phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", mở đường cho xã hội hóa giáo dục. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 6 Khóa VI (1989) đề ra chủ trương đa dạng hóa hình thức đào tạo và huy động nguồn lực xã hội, mở rộng các loại hình trường lớp ngoài công lập. Cơ chế tài chính giáo dục dần chuyển từ “nhà nước bao cấp toàn bộ” sang mô hình huy động nhiều nguồn, cho phép thu học phí.

Khi kinh tế bắt đầu hồi phục và có những bước phát triển, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991), đường lối đổi mới giáo dục được khẳng định ở một tầm cao mới: giáo dục và đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu” với nhiệm vụ “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) và Nghị quyết TW 2 khóa 8 (1996) tiếp tục đường lối đó, xác định rõ phương hướng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; khẳng định việc xã hội hóa giáo dục, đa dạng hóa các loại hình giáo dục và các hình thức đào tạo.

Các chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa thông qua các luật, ví dụ như Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), đặc biệt là Luật Giáo dục (1998), tạo ra khung pháp lý tương đối đầy đủ và minh bạch cho toàn bộ hệ thống.

Trong giai đoạn 1986–2000, hệ thống giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu mang tính nền tảng:

Khung pháp lý và thể chế giáo dục từng bước được hoàn thiện: đây là thành tựu nền tảng, với việc ban hành các văn bản luật quan trọng như Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991) và đỉnh cao là Luật Giáo dục (1998). Các văn bản này đã chuyển nền giáo dục từ chỗ vận hành dựa trên chỉ thị sang hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý ổn định, minh bạch.

Hệ thống giáo dục quốc dân được tái cấu trúc và phát triển đồng bộ: hệ thống giáo dục được tái cơ cấu một cách mạnh mẽ, từ việc thống nhất bộ máy quản lý (thành lập Bộ Giáo dục và Đào tạo), chuẩn hóa hệ phổ thông 12 năm, đến việc hình thành một cấu trúc liên thông từ mầm non đến sau đại học.

Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ vào năm 2000, triển khai phổ cập giáo dục THCS.

Cơ sở vật chất và môi trường giáo dục từng bước được hiện đại hóa: thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia như "kiên cố hóa trường lớp", hàng vạn phòng học tạm bợ đã được thay thế bằng các công trình kiên cố, góp phần cải thiện đáng kể điều kiện dạy và học, đặc biệt ở các vùng khó khăn.

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng: đội ngũ nhà giáo đã tăng mạnh về số lượng để đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô. Chất lượng từng bước được nâng lên thông qua các chương trình chuẩn hóa, đời sống giáo viên dần được cải thiện nhờ các chính sách mới.

Thành công trong xã hội hóa giáo dục và đa dạng hóa loại hình và hình thức giáo dục: chủ trương xã hội hóa đã phá vỡ thế độc quyền của hệ thống trường công, cho phép các loại hình trường dân lập, tư thục, bán công ra đời và phát triển. Điều này đã huy động được nguồn lực xã hội to lớn và tạo ra một môi trường giáo dục năng động, đa dạng hơn. Mặt khác, các phương thức đào tạo cũng được mở rộng theo hướng linh hoạt, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực như đào tạo từ xa…

Bước đầu đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục: ngành đã có những chuyển biến bước đầu trong việc đổi mới chương trình theo hướng "cơ bản, hiện đại, thiết thực", áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm. (8) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục: trong bối cảnh đất nước mở cửa, ngành giáo dục đã chủ động mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế (WB, UNESCO, UNICEF...), thu hút nguồn lực tài chính và kỹ thuật quan trọng cho sự phát triển.

a1-6-11.jpg Học sinh học trực tuyến trong giai đoạn phòng chống dịch bệnh Covid-19. Ảnh: Đức Trí

Giáo dục Việt Nam giai đoạn 2000-2025

Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2025, Việt Nam đã có những thay đổi đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị và xã hội, được thúc đẩy bởi quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghệ số. Giáo dục Việt Nam đã không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt thực hiện nhiều bước tiến đột phá, kiến tạo một nền giáo dục toàn diện, sẵn sàng thích ứng với sự phát triển của thời đại.

Giai đoạn đầu những năm 2000, giáo dục tập trung vào việc mở rộng quy mô; từ năm 2011 đến 2020, ngành đã chuyển hướng sang đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và hội nhập quốc tế. Sau năm 2020, trước những biến động phức tạp, ngành đã có những giải pháp đột phá để duy trì các hoạt động giáo dục, khẳng định vai trò then chốt trong sự phát triển của đất nước.

Trước những yêu cầu và thách thức của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước giai đoạn này đã hình thành một hệ thống tư tưởng nhất quán, có tính kế thừa và liên tục phát triển.

Hệ thống này được định hình bởi những thay đổi triết lý sâu sắc: từ cơ chế quản lý tập trung và nguồn lực chủ yếu từ ngân sách nhà nước sang một nền giáo dục được xã hội hoá; chuyển từ giáo dục trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; chuyển từ ứng dụng công nghệ thông tin đơn thuần sang chuyển đổi số toàn diện…

Những chính sách này không chỉ khẳng định quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” mà còn hướng tới xây dựng một nền giáo dục nhân văn, hiện đại, đảm bảo công bằng và chủ động hội nhập quốc tế. Quan điểm này được thể hiện rõ qua các nội dung sau:

Giáo dục là quốc sách hàng đầu: đây là quan điểm nền tảng được thể hiện nhất quán trong các chính sách. Văn bản tài liệu nhấn mạnh rằng đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, và sự nghiệp giáo dục là của toàn dân. Điều này được cụ thể hóa bằng việc ưu tiên nguồn lực, với Nghị quyết số 29-NQ/TW (năm 2013) của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, trong đó khẳng định tầm quan trọng của việc ưu tiên chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đạt tối thiểu 20% tổng chi.

Xây dựng nền giáo dục nhân dân, dân tộc, hiện đại, xã hội chủ nghĩa: chính sách này hướng đến việc đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và xây dựng một xã hội học tập. Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 là văn bản pháp lý quan trọng cụ thể hóa quan điểm này, đảm bảo mọi công dân đều có quyền học tập bình đẳng, bất kể dân tộc, tôn giáo, giới tính hay hoàn cảnh kinh tế.

Đổi mới căn bản, toàn diện: đây là một trong những chủ trương lớn nhất của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Sự đổi mới này nhằm tạo ra con người Việt Nam phát triển toàn diện và xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp. Nghị quyết số 29-NQ/TW là văn bản then chốt định hướng cho cuộc cách mạng này, tập trung vào việc chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.

Hội nhập quốc tế sâu rộng: chính sách giáo dục đã chuyển từ bị động sang chủ động hội nhập. Điều này được cụ thể hóa trong Quyết định số 711/QĐ-TTg (năm 2011) của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020. Mục tiêu là tham gia và khẳng định vị thế trên các diễn đàn giáo dục quốc tế trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời học hỏi những mô hình giáo dục tiên tiến trên thế giới.

Chuyển đổi số toàn diện trong giáo dục: đây là một cuộc cách mạng thay đổi cách dạy, học, quản lý và đánh giá, nhấn mạnh việc xây dựng một hệ sinh thái giáo dục số. Quyết định số 131/QĐ-TTg (năm 2022) của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030” là một trong những văn bản quan trọng nhất, định hình chiến lược này.

pnk09244-1.jpg

Vượt qua những khó khăn, nền giáo dục Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng tự hào, mang tính đột phá và thể hiện tầm nhìn chiến lược của ngành giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.

Trước hết, mạng lưới giáo dục từ mầm non đến đại học được mở rộng và hoàn thiện, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại; số trường đạt chuẩn quốc gia và cơ sở giáo dục ngoài công lập tăng nhanh, tạo sự đa dạng về loại hình.

Hoàn thành phổ cập giáo dục: tiểu học và trung học cơ sở được duy trì vững chắc, nhiều địa phương phổ cập trung học phổ thông, và đặc biệt năm 2017, Việt Nam công nhận hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi với gần 99% trẻ đi học.

Quy mô giáo dục và đào tạo phát triển mạnh: tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt; đến năm 2020 khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề được cấp chứng chỉ; số sinh viên/1 vạn dân tăng từ 117 (2000) lên hơn 200 (2010) và tiếp tục tăng sau đó.

Hoàn thành chu kì đầu tiên trong triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018; giáo dục nghề nghiệp gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường; bậc đại học mở rộng tự chủ, kiểm định chất lượng và có nhiều chương trình đạt chuẩn khu vực, quốc tế.

Công bằng giáo dục được cải thiện nhờ chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, giúp gia tăng tỷ lệ nhập học của nhóm yếu thế.

Hội nhập quốc tế và chuyển đổi số trở thành động lực mới: nhiều cơ sở đào tạo liên kết quốc tế, trong khi chuyển đổi số sau đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy xây dựng kho học liệu số, dạy học trực tuyến và quản trị hiện đại, đặt nền móng cho hệ sinh thái giáo dục số của Việt Nam.