Dương Văn An, tự là Tỉnh Phú, người làng Tuy Lộc, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy (nay là xã Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình). Về sau, ông ra cư ngụ tại làng Phú Diễn (Hà Nội), làm tới chức Thượng thư bộ Lại triều nhà Mạc.
Tiến sĩ vùng đất phên dậu
Làng Tuy Lộc – nơi Dương Văn An sinh ra có tên Nôm là Kẻ Tùy – tách ra từ làng Đại Phú Lộc nằm hữu ngạn sông Kiến Giang, giữa một vùng đồng quê trù phú. Tương truyền, vào đời nhà Mạc nơi đây sản sinh nhiều người tài, vua Mạc sợ vùng đất này phát sinh vượng khí đế vương nên ra lệnh đào con kênh từ sông Bình Giang xuyên cắt hai làng Đại Phú Lộc và Tiểu Phú Lộc nhằm cắt đứt long mạch.
Con kênh đó hiện vẫn còn và được dân địa phương gọi là kênh Mạc. Giai thoại kể rằng, khi đào xong, nước trong lòng kênh sôi lên đỏ như máu. Người ta cho rằng đó là máu rồng sau khi bị cắt đứt mới trào lên. Chặn được long mạch đế vương, nhưng vùng này vẫn sản sinh các nhân tài, nên dân gian có câu: “Chiếu hoa làng Đợi/ Giấy bồi Kẻ Tuy/ Rượu ngon làng Tiểu”.
Làng Kẻ Tùy sau đổi là làng Tuy Lộc, nơi Dương Văn An từng mô tả: “Đường sá đi suốt bốn phương, thuyền ghe buôn bán tấp nập, là một nơi đô hội của phủ Tân Bình”.
Cho đến nay, giới nghiên cứu lịch sử chưa thể kết luận chính xác năm sinh của Dương Văn An. Nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp trong sách: “Tìm hiểu kho báu Hán Nôm” khẳng định Dương Văn An sinh năm 1527, mất năm 1591, nhưng sách “Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam” lại cho rằng ông sinh năm 1514, mất năm 1591. Trong khi đó, sách “Đại Việt lịch triều đăng khoa lục” ghi Dương Văn An đậu Tiến sĩ lúc 30 tuổi tại khoa thi Đinh Mùi, triều vua Mạc Phúc Nguyên năm thứ nhất. Năm Đinh Mùi ứng vào năm 1547, nên có thể ước định ông sinh vào năm 1517.
Cũng giống nhiều Tiến sĩ và quan chức thời nhà Mạc, sử liệu ghi chép về Dương Văn An rất hạn chế, rất có thể bị triều đình nhà Lê - sau khi phục hưng đã cho tiêu huỷ, hoặc vì một lý do nhạy cảm nào đó mà ít được biên chép, lưu hành. Thế nên, về gia đình và hành trạng thời trẻ của Dương Văn An vẫn còn là một bí ẩn. Tuy nhiên, theo lời Tựa trong sách “Ô Châu cận lục” do ông biên soạn, thì ông “sinh ra và lớn lên ở đất này, theo đòi nghiệp học, thấm nhuần giáo hóa, kể đã nhiều năm. Vào khoa năm Đinh Mùi (1547), thì đỗ Tiến sĩ”.
Trong 65 năm (1527 – 1592) trị vì ở Thăng Long, triều Mạc đều đặn 3 năm tổ chức một lần thi Hội theo thể thức được đặt ra từ thời Hồ. Từ khoa thi đầu tiên năm Kỷ Sửu (1529) đời Mạc Đăng Dung cho đến khoa thi cuối cùng – khoa Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592) đời Mạc Mậu Hợp, nhà Mạc đã tổ chức được 22 khoa thi, lấy đỗ 484 Tiến sĩ. Trong đó, riêng đạo Thuận Hóa – vùng đất phên dậu của đất nước thời bấy giờ (gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng và phía Bắc Quảng Nam) có 2 người đỗ Tiến sĩ, và một trong số đó chính là Dương Văn An.

Từ văn đình đối sách đến “Ô châu cận lục”
Về khoa thi này, các nguồn sử liệu cho biết, năm 1547 Mạc Tuyên Tông – cháu của Thái tổ Mạc Đăng Doanh mới ít tuổi đã được kế vị ngôi vua. Để bậc đế vương cai trị được thiên hạ, các quan nhiếp chính đại thần họ Mạc như: Mạc Kính Điển, Phạm Tứ Nghi cùng các Trạng nguyên khoa trước đã ra đề và tổ chức khoa thi với chủ đề “Chế sách của Hoàng thượng”.
Đề thi như sau: “Bậc đế vương cai trị thiên hạ, tất phải lấy nhân nghĩa, giao xã, đồn điền, thủy lợi, lục nghệ, đồ thư, học hiệu, văn chương làm điều cốt yếu trong việc cai trị. Thế nào gọi là động? thế nào gọi là tĩnh? Động tĩnh có đúng là tương thông với nhau chăng? Thế nào gọi là hợp? thế nào gọi là phân? Phân hợp cái nào là thích hợp, có phương pháp việc phòng thủ, giảm bớt sự vất vả của việc vận chuyển, làm cho đất nước đủ cái chi dùng, thực quận xa nữa là nơi biên giới, ai là người có thể khai thác nguồn lợi những nơi đó?.
Cái nghĩa cơ bản của ngũ nhạc, ngũ xạ, ngũ ngự, lục thư, cửu số có thể trình bày rõ được không? Mối liên quan, sự vững bền và biến hóa của bát quái, cửu trù, sinh số, cơ số, ngẫu số có thể trình bày đầy đủ được không? Phương pháp học của tiểu học, đại học, thượng tường, hạ tường, đông tự, tây tự, tả học, hữu học đều không giống nhau. Có thể chỉ ra thực chất việc thiết lập chúng và ý nghĩa của từng loại trường đó được không? Các thể thiên văn, nhân văn, sách vở, từ phú, văn chương, chế cáo không giống nhau. Có thể chỉ ra người tiêu biểu đứng trong giới văn chương sách vở được không? Những thể văn trên đúng là có thái thể cái chung, cái trước, cái sau chăng?

Trẫm nối nghiệp tiên tổ, ngay buổi ban đầu đã thi hành chính sách nhân nghĩa. Kẻ gian tà chưa được giáo hóa thì chỉnh đốn việc tế giao, tế xã. Việc thường ngày chưa được hài hòa thì quy định lại. Hạn hán, lũ lụt chưa chặn được thì nghiên cứu lục nghệ, đồ thư. Nền giáo hóa trong thiên hạ chưa được thuần nhất thì coi trọng việc học hiệu, văn chương. Thế mà hiện nay phải chăng cái học của người lục nghệ học chưa được đúng đắn, hành động của họ chưa hợp với đạo? Có phải vì cái đạo ở đời có khi lên, khi xuống mà dẫn đến như vậy chăng.
Là bậc đại phu trong thời nay, đứng trong triều thi hành mọi việc, làm thế nào để ở bên trên thì đạo được thịnh vượng, ở bên dưới thì phong tục được tốt đẹp, khiến cho trẫm có được một nền chính sự trong sáng, có phúc lành như bậc đế vương Hy Dao xưa. Hãy trả lời tất cả những điều trên để trẫm đích thân đọc xét”.
Với đề thi như vậy, người nay – dù am hiểu tứ thư ngũ kinh, nho y lý số, hiểu rõ Khổng giáo, Pháp gia, Mặc học, Đạo giáo… cũng khó lòng diễn ý nôm na. Đằng này, các sĩ tử xưa đã mạch lạc thông hiểu lại diễn trình sâu sắc. Kết quả là khoa thi này, Dương Phúc Tư đỗ Trạng nguyên, Dương Văn An đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Bài văn sách thi Đình của Dương Phúc Tư được vua phê rằng: “Điều đối thiết yếu, chân đại thủ bút, sĩ vị chân nho, xuất thế đạo hành” (Điều đối thật là thiết yếu, đây là cây bút lớn, là vị chân nho, xuất thế đạo hành).
Sau khi thi đỗ, Tiến sĩ Dương Văn An được triều đình nhà Mạc bổ quan. Theo quan chế thời ấy, những người đỗ đại khoa đều được bổ dụng, chí ít là Tri huyện hoặc Viên ngoại lang. Từ chức vị này sẽ thăng lên phó rồi Hiến sát sứ lên Đô cấp sự trung. Năm Ất Mão (1555), ông giữ chức Lại khoa đô cấp sử, tước Sùng Nham bá, về sau được thăng lên Tả thị lang bộ Lại rồi dần dần tăng lên chức Thượng thư bộ Lại, tước Sùng Nham hầu.

Trong thời gian làm quan nhà Mạc, Tiến sĩ Dương Văn An định cư tại Phú Diễn (nay là phường Phú Diễn, Hà Nội). Năm 1553, trong lúc đang giữ chức Đô cấp sự trung thì ông phải trở về quê nhà cư tang. Đó là khoảng thời gian rảnh rỗi để ông đọc khắp các sách có trong thiên hạ.
Một số tư liệu nói rằng, lúc bấy giờ có hai nho sinh cùng làng đã khởi thảo hai tập địa phương chí về hai phủ Tân Bình (Quảng Bình cũ) và Triệu Phong (Quảng Trị cũ) đưa Tiến sĩ Dương Văn An xem. Là người có kiến thức uyên thâm, ông có nhận xét về hai tập sách ấy rằng: “Về hình trạng các sông núi, tên gọi các sản vật, phong tục lề thói thế nào, nhân vật hay dở ra sao đều thấy rõ như trên bàn tay”.
Và dù “lấy làm mừng được xem hai tập ấy” nhưng ông vẫn chưa hài lòng và có ý định biên soạn một cuốn địa phương chí đầy đủ hơn về Thuận Hóa – như lời tự thuật: “Tôi không tự nghĩ mình học vấn kém, khảo thêm các sách sử thông tục tham chước thêm những điều truyền, văn, chỗ rườm thì bán bớt, chỗ lược thì bổ sung, đặt tên là “Ô châu cận lục”.
Trong 2 năm (1553 - 1555), ông tiến hành nghiêm túc tác phẩm này, và khiến cho “Ô châu cận lục” trở thành tác phẩm lớn nhất, sâu sắc nhất về địa chí, phản ánh tầm nhìn và học vấn của một trí thức lớn thời Mạc.

Bản địa chí mở đầu vùng Thuận – Quảng
Trong kho tàng địa chí học Việt Nam, “Ô Châu cận lục” được coi là một trong những tác phẩm nền tảng, là nguồn tư liệu quý để hiểu về vùng đất Thuận – Quảng ở thế kỷ 16, đồng thời cũng là minh chứng cho cách nhìn lịch sử và văn hóa của giới nho sĩ đương thời.
“Ô Châu cận lục” tập trung mô tả vùng đất từ sông Linh Giang (Quảng Bình) đến sông Bến Hải (Quảng Trị), thuộc hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam thời đó. Tiến sĩ Dương Văn An đề cập sâu sắc đến từng lĩnh vực, từ ghi chép các châu, huyện, phủ cho đến núi sông, cửa biển, đường sá... Không chỉ là những mô tả đơn thuần, ông còn cho thấy cái nhìn về tiềm năng quân sự, kinh tế của vùng đất này.
Trong tác phẩm, ông cũng kể chi tiết về sản vật quý hiếm, thổ nhưỡng, nghề nghiệp, từ lúa gạo, muối, mía, dâu tằm cho đến các loại gỗ, khoáng sản. Đây là cơ sở để thấy vùng đất này giàu tiềm năng khai thác, đóng góp quan trọng cho quốc gia.
Đặc biệt về văn hóa – tín ngưỡng được ông biên chép tỉ mỉ các chùa chiền, miếu mạo, đền thờ, cùng nhiều phong tục, tín ngưỡng. Ông cũng dành nhiều nhận xét sắc sảo về tính cách người dân Ô châu: Chất phác, kiên cường nhưng cũng có phần thô mộc, nóng nảy. Đây vừa là quan sát khách quan, vừa ẩn chứa cái nhìn phê phán và kỳ vọng cải hóa theo khuôn mẫu Nho học.
“Ô Châu cận lục” thể hiện rõ quan điểm Nho giáo của một trí thức trung thành. Dương Văn An nhìn nhận vùng đất mới theo cách vừa đề cao tiềm năng, vừa nhấn mạnh nhu cầu “giáo hóa” con người. Ông cho rằng con người nơi biên viễn tuy mạnh mẽ nhưng cần được uốn nắn bởi lễ nghĩa, học vấn để hòa nhập vào trật tự.
Đặc biệt, dưới ngòi bút của Dương Văn An, Bình Trị Thiên nói chung, Quảng Bình nói riêng, không còn khắc khổ, đen tối như câu ca dân gian: “Quảng Bình là đất Ô châu/ Ai đi đến đó mang bầu về không”, mà là: “Nhân dân thì đàn ông khá cương cường, đàn bà hơi mềm mại. Tiếng nói thì hơi giống miền Hoan Ái; áo dài mặc không khác lối Trung Hoa. Đồng bằng thì nông tang vốn sẵn nghiệp nhà; bờ biển thì cá muối là kho vô tận, xóm làng trù mật nên gà chó từng đàn, cỏ nước ngon lành nên trâu bò béo tốt”.
Giới nghiên cứu cho rằng, “Ô châu cận lục” là tác phẩm địa chí sớm nhất còn lưu truyền về Thuận – Quảng, đặt nền móng cho các bộ địa chí sau như: “Phủ biên tạp lục” (Lê Quý Đôn) hay “Đại Nam nhất thống chí”. Cách ghi chép cho thấy sự kết hợp giữa lối khảo cứu dựa vào điển lệ, văn hiến và quan sát thực tiễn nhằm mô tả trung thực. Tiến sĩ Dương Văn An không chỉ liệt kê mà còn so sánh, đánh giá, phân loại, từ đó khái quát bản sắc vùng đất.
Ông sử dụng văn phong súc tích, giàu cảm xúc; sử dụng nhiều điển tích, điển cố của Nho học để so sánh, nhưng cũng không ngại đưa vào những nhận xét đời thường. Có đoạn viết khúc chiết, chuẩn mực như một bản khảo cứu; có đoạn lại giàu hình ảnh, đậm chất ký sự, khiến tác phẩm gần gũi. Lối viết ấy thể hiện tư duy của một nhà khoa bảng, nhưng cũng gắn bó thiết tha với quê hương.
Năm Tân Mão (1591), Tiến sĩ Dương Văn An qua đời, được tặng tước Tuấn Quốc công. Người dân xây miếu thờ một nhà khoa bảng ngay tại nơi ông sinh ra để tưởng nhớ, tri ân một tài năng hiếm có của vùng đất Thuận Hoá xưa. Năm 2006, miếu thờ Tiến sĩ Dương Văn An được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
“Một câu đồng dao trẻ hát lên, một lời khen chê xóm làng nhắc tới, thánh nhân còn chép lấy huống chi tập sách này ghi chép cả núi sông khúc chiết, hình thế hiểm trở, vật sản tài nguyên có ích cho quốc dụng, chiếc cầu, nhà trạm, quan hệ đến vương chính, thành nào có thể chống đỡ quanh ngoài, đền nào có thể ngăn trừ tai họa đều ghi chép cả. Một phụ nữ có nết na trong sạch cũng chép mà cả đến thói dâm tục bạc cũng không quên, để ngụ ý yêu ghét, một kẻ sĩ có khí tiết cao cũng chép mà đến cả loạn thần tặc tử cũng không bỏ là để ngụ ý khuyên răn” – Tiến sĩ Dương Văn An viết trong lời Tựa sách “Ô châu cận lục”.