Trong bối cảnh này, các trường đại học giữ vai trò trung tâm trong đổi mới đào tạo, gắn với thực tiễn và hội nhập.
Chất lượng nhân lực làm chủ công nghệ
Theo Quyết định phê duyệt Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam đến năm 2035, định hướng đến năm 2045, Chính phủ đặt ra mục tiêu: Giai đoạn 2025 - 2030 đào tạo ít nhất 35.000 nhân lực chất lượng cao. Trong đó, trình độ sau đại học khoảng 1.000 người, trình độ đại học 14.000 người, cao đẳng 11.000 người và trung cấp 9.000 người.
Các chuyên ngành đào tạo tập trung vào kỹ thuật xây dựng công trình đường sắt, kỹ thuật xây dựng, thông tin - tín hiệu đường sắt, hệ thống điện và năng lượng, đầu máy - toa xe, kinh tế xây dựng, kinh tế vận tải và khai thác vận tải đường sắt. Ngoài ra, khoảng 5.000 người được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phục vụ vận hành, khai thác và bảo trì các tuyến đường sắt đô thị; đồng thời khoảng 1.500 lượt cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức quản lý, vận hành và quản lý dự án.
GS.TSKH Bùi Văn Ga - nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, cho rằng, xây dựng đường sắt cao tốc cần nhân lực nhiều ngành như giao thông, xây dựng, cầu đường, cơ khí, điện, luyện kim, động lực, điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa… Là đỉnh cao của ngành đường sắt, lực lượng tham gia vào dự án từ thiết kế, xây dựng, vận hành, bảo trì phải là những người có trình độ chuyên môn sâu, đào tạo bài bản theo chuẩn quốc tế, có tinh thần trách nhiệm cao.
“Điều quan trọng để đảm bảo phát triển bền vững chúng ta phải làm chủ công nghệ. Lúc đó mới chủ động triển khai dự án theo đúng kế hoạch dự kiến, không phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động kinh tế, xã hội trên thế giới. Muốn làm chủ công nghệ, cần có đội ngũ nhân lực chất lượng cao để tiếp thu và phát triển công nghệ mới. Thời gian đào tạo một kỹ sư đường sắt tốc độ cao, từ cơ bản đến chuyên sâu, thường kéo dài 5 - 7 năm, đòi hỏi sự chuẩn bị có tính toán và đi trước một bước”, GS.TSKH Bùi Văn Ga phân tích.
Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về trí tuệ nhân tạo đến năm 2030, với mục tiêu trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo và phát triển các giải pháp AI trong khu vực ASEAN. Định hướng này đặt ra yêu cầu cấp thiết về đội ngũ nhân lực AI có nền tảng vững chắc, đồng thời làm chủ các lĩnh vực ứng dụng quan trọng như thị giác máy tính, xử lý ngôn ngữ tự nhiên tiếng Việt, an ninh mạng và an toàn dữ liệu. Tuy nhiên, theo nhiều khảo sát, nguồn nhân lực hiện nay còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt là đội ngũ kỹ sư, chuyên gia có khả năng tham gia vào khâu nghiên cứu, thiết kế và làm chủ công nghệ lõi.
Cùng với AI, nhân lực trong lĩnh vực bán dẫn và hệ thống nhúng được xác định là trọng tâm để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị công nghệ cao. Việc các tập đoàn lớn như Qualcomm mở trung tâm nghiên cứu và phát triển AI tại Việt Nam cho thấy quốc gia đã được “định vị” trên bản đồ công nghệ toàn cầu. Tuy nhiên, nếu thiếu đội ngũ kỹ sư giỏi thiết kế vi mạch và hệ thống nhúng, Việt Nam khó vượt qua vai trò gia công, lắp ráp để vươn lên những nấc thang giá trị cao hơn.
Với kinh tế biển, yêu cầu về nhân lực cũng có thay đổi căn bản trong khi đó, lao động trong lĩnh vực kinh tế biển chủ yếu làm nghề theo kinh nghiệm truyền thống, chưa được đào tạo bài bản nên khả năng tiếp cận khoa học - công nghệ còn hạn chế. Cơ cấu nhân lực thiếu cân đối, tập trung nhiều vào khai thác hải sản truyền thống, trong khi các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như logistics và dịch vụ cảng biển còn thiếu nhân lực chất lượng.
Ảnh minh họa INT.
Đi trước, đón đầu trong đào tạo
Nhiều trường đại học chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực cho đường sắt tốc độ cao, đáp ứng yêu cầu phát triển hạ tầng giao thông hiện đại. Trường Đại học Giao thông vận tải TP Hồ Chí Minh - một trong những đơn vị sớm tiếp cận lĩnh vực này, với kinh nghiệm đào tạo ngành đường sắt Metro từ năm 2008 và hoạt động hợp tác, trao đổi học thuật với các quốc gia có đường sắt phát triển. Trường đã thành lập Viện Đường sắt tốc độ cao, hướng tới đào tạo chuyên sâu gắn với thực tiễn.
Cùng định hướng đó, Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải rà soát, điều chỉnh chương trình đào tạo theo triết lý “Ứng dụng - Thực học - Thực nghiệp”, tăng tỷ trọng thực hành, thực tập lên hơn 40%. Từ năm 2025, trường mở thêm nhiều chương trình đào tạo mới liên quan đường sắt tốc độ cao nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực của ngành.
Tại khu vực miền Trung, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng được xác định là một trong những cơ sở đào tạo nòng cốt cho lĩnh vực đường sắt hiện đại. Từ năm 2025, nhà trường triển khai chương trình Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông, chuyên ngành Xây dựng đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị. Chương trình được xây dựng trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia có nền đường sắt phát triển như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, đồng thời tích hợp thực tiễn thi công và vận hành tại Việt Nam, chú trọng ứng dụng công nghệ số, BIM và các phần mềm mô phỏng hiện đại.
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng định hướng mở rộng các chuyên ngành khai thác, quản lý vận hành, cơ khí đầu máy - toa xe, thông tin - tín hiệu và điều khiển đường sắt, hình thành hệ sinh thái đào tạo toàn diện. Việc hợp tác với Tổng Công ty Đường sắt Hàn Quốc được kỳ vọng tạo điều kiện để sinh viên tiếp cận công nghệ vận hành tàu cao tốc, sẵn sàng hội nhập thị trường lao động trong nước và quốc tế.
Với kinh tế biển, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam là một trong những cơ sở đào tạo nòng cốt. Nhà trường đã mở rộng các ngành logistics, quản lý cảng, kinh tế vận tải biển, đồng thời từng bước tiếp cận các lĩnh vực mới như vận tải xanh, năng lượng gió ngoài khơi. Thông qua hợp tác quốc tế, chương trình đào tạo được chuẩn hóa, sinh viên có cơ hội thực hành theo chuẩn mực toàn cầu.
Điểm nhấn quan trọng là đẩy mạnh hợp tác công - tư (PPP) trong đào tạo. Nhiều trường đại học đã tăng cường liên kết với doanh nghiệp, tập đoàn, ban quản lý dự án để đặt hàng đào tạo, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, cấp học bổng và cam kết việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp. Cách làm này giúp đào tạo sát nhu cầu, giảm khoảng cách giữa nhà trường và thị trường lao động.
Bên cạnh đó, quốc tế hóa giáo dục đại học được xem là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng nhân lực. Thông qua hợp tác với các trường, viện nghiên cứu uy tín của châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…, chương trình đào tạo được chuẩn hóa, giảng viên và sinh viên có cơ hội trao đổi học thuật, tham gia học kỳ doanh nghiệp ở nước ngoài, tiếp cận công nghệ và phương thức quản trị tiên tiến, thế mạnh của các bên trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu chuyên sâu, ứng dụng AI, IoT, BIM vào giải quyết các bài toán hạ tầng, giao thông, kinh tế biển không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, mà còn trực tiếp đóng góp cho các dự án phát triển.
Hệ sinh thái đào tạo chất lượng cao
Ở khu vực phía Bắc có 7 cơ sở giáo dục đại học chủ trì, dẫn dắt 7 mạng lưới trong lĩnh vực ưu tiên như trí tuệ nhân tạo, công nghiệp bán dẫn, công nghệ sinh học, công nghệ giao thông và vật liệu tiên tiến; khu vực miền Trung và phía Nam có 6 cơ sở giáo dục đại học chủ trì 6 mạng lưới.
Mỗi mạng lưới do một cơ sở giáo dục đại học có thế mạnh đóng vai trò dẫn dắt, với sự tham gia của ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học cùng các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các mạng lưới sẽ tổ chức tối thiểu một chương trình đào tạo xuất sắc, bao gồm đào tạo thích ứng, đào tạo lại, đào tạo nâng cao và chuyên sâu, nhằm phát triển nguồn nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên của công nghiệp 4.0. Bộ GD&ĐT đặt mục tiêu mỗi mạng lưới thu hút ít nhất 100 nhà khoa học, chuyên gia giỏi người Việt Nam ở nước ngoài và quốc tế tham gia giảng dạy, nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục đại học trong nước.
Phát biểu tại lễ ra mắt 7 mạng lưới khu vực phía Bắc, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh, việc công bố các mạng lưới trung tâm đào tạo xuất sắc và tài năng về công nghệ là bước đi cụ thể nhằm triển khai các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn giáo dục đại học.
Theo Thứ trưởng, thay vì phát triển đơn lẻ từng trường, ngành Giáo dục chuyển sang cách tiếp cận dựa trên mạng lưới hợp tác, chia sẻ nguồn lực giữa nhà trường, doanh nghiệp và Nhà nước. Qua đó kỳ vọng tạo đột phá về chất lượng nguồn nhân lực công nghệ cao, thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gắn với nhu cầu thực tiễn.
“Các trường cần liên kết với doanh nghiệp trong nghiên cứu phát triển sản phẩm, các trung tâm nghiên cứu triển khai chung giữa nhà trường, viện nghiên cứu và doanh nghiệp để sử dụng thế mạnh của các bên trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ” - GS.TSKH Bùi Văn Ga cho biết.