Tập truyện ngắn đậm nỗi nhớ đất nhớ người của Bình Nguyên Lộc

Truyện ngắn Rừng mắm kể về một gia đình ba thế hệ vì nghèo khó, không có đất nên lưu lạc tới xứ U Minh (Cà Mau) mưu sinh lập nghiệp, in lần đầu trong tập Ký thác (NXB Cửu Long, năm 1968) được NXB Trẻ chọn là truyện mở đầu và là tên chung tập sách mới xuất bản của nhà văn Bình Nguyên Lộc.

Rừng mắm nguyên là một truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, in lần đầu trong tập Ký thác (NXB Cửu Long, năm 1968), được chọn là truyện mở đầu và chủ đạo trong tập truyện này. Truyện kể về một gia đình ba thế hệ, vì nghèo không có đất nên lưu lạc tới xứ U Minh (Cà Mau) để khai phá. Nơi định cư mới bên bờ rạch được họ đặt tên là Ô Heo vì ban đầu là hang ổ của heo rừng và thú dữ. Vùng đất không người đó vừa khắc nghiệt lại vừa rất nên thơ qua con mắt của cậu thiếu niên tên Cộc, hứa hẹn rằng những đắng cay mà gia đình Cộc phải chịu lúc này sẽ đem lại ngọt bùi khi người dân tứ xứ theo chân họ đến đây lập nghiệp, mở ra một tương lai xán lạn.

image-51-718x1024-1716797068.png
Chú thích ảnh

Chỉ qua một truyện ngắn, Bình Nguyên Lộc như tái hiện lại một phần lịch sử vùng Nam bộ buổi khai hoang, khi những người Việt đầu tiên tìm đến thuần hóa đất đai. Khi đó, nơi này chẳng phải là vùng trù phú mà vô cùng khắc nghiệt, sinh kế gian nan:

Đó là một “cái xó không người” với “khí hậu tàn ác”: “nóng, ẩm, còn muỗi mòng thì quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy”. “Đất ở đây mặn chát dùng không được”, “mười công đất chỉ gặt được có tám giạ thôi.”

Ở vùng đất đó, gia đình Cộc đã cố gắng để thuần hóa đất bằng sức người và sự tháo vát, để đất đem lại cái ăn cho con người. Họ đốt rừng tràm làm ruộng, đuổi thú dữ đi, và làm vườn trên những “miếng vườn cao cẳng”, chẻ gốc tràm để làm “nọc nạng” gác lúa:

“Ông nội nó với tía nó đốt rừng tràm từ ngoài bờ rạch. Gió thổi vô rừng, và lửa, như con vật khổng lồ, đã táp một cái vào khối thịt xanh um của rừng tràm nầy.” “Lúc ruộng chín, cây lúa cao quá, ngã rạp xuống, để lòi trăm ngàn gốc tràm lên, trông như ai đóng cọc để cất nhà sàn; năm xưa đốt rừng nhưng không đủ sức đánh những gốc tràm tươi rói không cháy được nầy, tía thằng Cộc đành cấy lúa giữa những gốc ấy”.

“Tía nó đã đóng mười hai cây cọc, làm thành bốn cái giá ba chơn tréo như giá trống… Trên mỗi giá, đặt một cái nồi lủng đít, và trong nồi để đầy đất mà tía nó mang từ xa về. Đất ở đây mặn chát dùng không được. Hành, ớt, rau răm, rau mồ om, được trồng trong mấy cái vườn cao cẳng đó.”

Họ đã cố gắng đẩy lui cái hoang dã để giành lấy từng tấc đất cho con người. Ở tuổi bắt đầu biết bâng khuâng, cậu bé Cộc “thèm người”, “thèm chè, thèm xưng xa, nhớ đám cúng đình, nhớ hát bội”, cho rằng ở đây “mình có ruộng nhưng cũng khổ cả đời” và muốn đi nơi khác. Nhưng ông nội đã bảo cho Cộc hiểu vì sao họ phải “hì hục năm năm trong đồng chua nước mặn”:

“Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được… Đời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng.”

Truyện ngắn Rừng mắm đã tái hiện công cuộc mở đất đầy mồ hôi, nước mắt và cả hy sinh của cha ông ta, một chặng đường lịch sử của vùng đất Nam bộ.

Nếu ở Rừng mắm, Bình Nguyên Lộc kể về lớp người mở đất, thì ở Bám níu, ông lại hướng về những người bám đất. Thông qua hoạt động hứng cá, tát vũng bắt cá của dân quê miền Đông Nam bộ khi qua mùa nước lũ, ông nói lên thông điệp về việc giữ đất quê hương.

Trong lúc tát vũng, nhóm nhân vật trong sách phát hiện có những con cá sông không “chạy” từ đồng ruộng ra sông lớn trong đám mưa cuối mùa mà “lội ngược dòng” ở lại trong ao vũng. Lão Nghiệm, nhân vật được mô tả là như “một tộc trưởng của thời xa xưa, rất nhiều kinh nghiệm sống và nhiều khả năng chỉ đạo”, “cả xóm cả làng đều nghe theo lão” đã phát biểu:

“Sở dĩ chúng nó không ‘chạy’ vì chúng nó thương yêu cái nơi chôn nhau cắt rún của chúng, cố lội ngược dòng, bám níu để ở lại nơi mà chúng nó chào đời.”

“Bám níu, ông bà ta đã bám níu, tao đã bám níu mới còn xóm nầy, làng nầy. Còn làng mới còn nước mình.”

Mở đất và giữ đất, thuần hóa đất hoang và biến đổi đất nghèo, ông cha ta ngày xưa và chúng ta ngày nay đã, đang và sẽ tiếp tục công việc này, góp phần vào công cuộc mở nước và giữ nước. Hai truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc đã ghi chép lại một phần lịch sử, nhắc nhở chúng ta về sự thiêng liêng của từng tấc đất quê hương, về sự hy sinh của các lớp người đi trước, để thế hệ này tiếp tục nỗ lực vì dải đất thân thương, vì sự no ấm của người dân. Lời văn mộc mạc, tự nhiên và giàu tình cảm của Bình Nguyên Lộc khiến những câu chuyện này thêm thấm thía.

VỀ TÁC GIẢ

BÌNH NGUYÊN LỘC (1914 - 1987) tên thật là Tô Văn Tuấn, xuất thân trong một gia đình có mười đời sống tại Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là Bình Dương). Ông là nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam bộ chuyên nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ và cổ văn. Trong sự nghiệp cầm bút, ông có khoảng 50 tiểu thuyết, 1000 truyện ngắn và 4 cuốn sách nghiên cứu. Một số tác phẩm của ông chưa kịp in đã bị thất lạc, hủy hoại trong chiến tranh.

Một số tác phẩm của Bình Nguyên Lộc được NXB Trẻ ấn hành: Đò dọc; Mưa thu nhớ tằm; Cõi âm nơi quán cây dương; Mối tình cuối cùng; Hương quê

Link nội dung: https://nhipsongsaigon.net/tap-truyen-ngan-dam-noi-nho-dat-nho-nguoi-cua-binh-nguyen-loc-a93750.html